http://anhsangtrithuc.blogspot.com/p/blog-page.html

CÁI GIÁ ĐỂ LÀ MỘT NGƯỜI TỈNH TRÍ, TRONG CÁI XÃ HỘI NÀY, LÀ CẢM GIÁC LẠC LOÀI DÙ ÍT HAY NHIỀU

Terence McKenna/Ánh Sáng Tri Thức

Hiển thị các bài đăng có nhãn KHOA HỌC. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn KHOA HỌC. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2014

Tại sao tình dục lại nguy hiểm?


Tại sao tình dục lại nguy hiểm?

Tình dục là hành vi cổ xưa nhất của loài người và không bao giờ lạc hậu, là một trong những loại bản năng quan trọng bậc nhất sau hít thở, ăn uống, tiêu hóa… Với các loài động vật khác, tình dục là để duy trì nòi giống. Với con người, không chỉ duy trì nòi giống, Tình dục còn có giá trị vui thú, thậm chí ở một số trường hợp, tình dục có thể đạt đến sự thiêng liêng. Nhưng tại sao những bản năng khác không gây nên nhiều ám ảnh như tình dục? Tại sao con người vừa thích thú với Tình dục lại vừa sợ hãi khi đối mặt với nó? Đây là một quá trình rắc rối của những quan niệm bị cấy vào tâm trí con người trong nhiều nghìn năm lịch sử mà một bài viết ngắn ngủi không thể chuyển tải hết.

Một số khái niệm liên quan đến Tình dục cần định nghĩa lại.
Trước hết, tôi xin phép được đưa ra cách định nghĩa của riêng mình cho những khái niệm sẽ sử dụng trong bài. Tại sao cần điều này, sở dĩ bởi những khái niệm liên quan đến vấn đề tình dục thường có nhiều cách định nghĩa khác nhau và rất dễ gây ra hiểu lầm.
“Dục” theo quan niệm của Phật giáo là sự ham muốn, ham muốn này khiến vạn vật ở thế gian đều sinh sôi nảy nở.
“Năng lượng dục” là sức mạnh của sự sinh sôi nảy nở có trong vạn vật
“Tình dục” là những ham muốn về sự hòa hợp và nảy sinh sự sống mới. Điều này khác hoàn toàn với “giao phối”. Tại sao ở các loài động vật chúng ta không dùng khái niệm “tình dục” mà lại chỉ dùng khái niệm “giao phối”? Vì “tình dục”, bên cạnh những hoạt động phối ngẫu, còn là sự giao hòa tinh thần giữa hai bạn tình. Bởi thế, trong Kama Sutra của người Ấn Độ cổ xưa, bên cạnh những tư thế làm tình, triết gia Vatsyayana còn đưa ra những đạo đức xoay quanh chuyện giường chiếu, và quan trọng hơn thế, nói về sự gắn kết của linh hồn. Trong triết học Hy Lạp Cổ đại, Plato cũng quan niệm rằng con người cổ xưa vốn ở dạng lưỡng tính gồm Nam-Nữ, hoặc một dạng đặc biệt khác là Nam-Nam. Nhưng con người lưỡng tính, hay nói cách khác, con người hoàn hảo này bị chia cắt và lưu lạc ở hạ giới, cố gắng đi tìm nửa kia của mình để thực hiện sự kết hợp và quay trở về trạng thái hoàn hảo. Điều này cũng khá tương đồng trong pháp tu Mật Tông của Ấn Độ và Phật giáo Tây Tạng: thông qua sự giao hoan giữa nam và nữ, những người thực hành pháp tu này có thể đạt tới Thượng Đế, hay nói cách khác, đạt tới toàn thể.
Vậy “tình dục” khác “tình yêu” như thế nào? Đa số con người nhầm lẫn giữa hai điều này. “Tình yêu” chỉ được coi đơn thuần là mối quan hệ thiêng liêng gắn kết nam và nữ và “tình dục” chỉ đơn thuần là hành vi giao phối. Đây là cách hiểu làm hạ cấp, đầu độc tâm trí con người trong nhiều thế hệ bởi những kẻ thực dụng và đạo đức giả.  ”Tình yêu” không phải một mối quan hệ, lại càng không phải hành vi. “Tình yêu” là một trạng thái tinh thần khi linh hồn này gắn kết với linh hồn khác hoặc một đối tượng tinh thần nào đó. “Tình yêu” không nhất thiết chỉ có giữa nam và nữ, có thể là tình yêu mẹ con, tình yêu chị em, thậm chí tình yêu với nghệ thuật, với lý tưởng, tình yêu với Thượng Đế… Tình yêu có thể tồn tại giữa nam và nữ và được thể hiện qua các hành vi Tình dục. Điều này có nghĩa, tất cả những hành vi giao phối, cho dù đạt đến kỹ năng thế nào, cho dù thực hiện đầy đủ một lễ nghi như tôn giáo để thể hiện mọi sự màu mè của nó, cho dù được tô điểm bằng những lời lẽ thần thánh… mà không có bất kỳ sự gắn kết nào về mặt tinh thần, thì cũng không khác lắm các loài động vật khác.
Tại sao tình dục lại nguy hiểm?

Sự đặc biệt trong Tình dục của loài người
Nếu nhìn vào thế giới sinh vật, chúng ta có thể thấy loài người có một khả năng dục thật không tưởng. Các loài thực vật, động vật chỉ giao phối trong mùa sinh sản, nhưng con người có thể giao phối với nhau mọi lúc, mọi nơi. Nếu ở các loài sinh vật khác, giao phối chỉ với mục đích truyền lại nòi giống của mình thì Tình dục ở loài người lại mang nhiều ý nghĩa hơn thế. Có thể vì khả năng giao phối bất thường của loài người mà chúng ta bắt đầu nảy sinh những nhu cầu cao hơn việc tiếp xúc về mặt thể xác.  Tại sao con người có những khả năng này thì đến giờ vẫn là một ẩn số với tất cả các nhà khoa học. Mọi lý giải về nguồn gốc loài người và bản chất loài người trong khoa học, triết học, tôn giáo dường như đều né tránh chủ đề kỳ quặc này, cứ thể như nó động vào một cái gì đó sâu kín của họ.

Con người có một năng lượng dục rất to lớn, to lớn đến mức mà các quy luật tự nhiên cũng không thể kiểm soát được. Tự nhiên có thể lập trình được mùa sinh sản ở tất các loài, trừ loài người. Năng lượng dục kích thích sự sinh sôi của con người, nhưng cũng kích thích cả sự hủy diệt các cá nhân khác, các loài khác để bảo vệ quyền sinh tồn của mình. Có một sự thực bất cứ ai có khả năng chiêm nghiệm đều thấy: khi sự sống được tự do phát triển thì song song với quá trình đó là quá trình ăn lan của cái chết. Trên một thực thể, số lượng các tế bào mới sinh ra và các tế bào bị tiêu hủy là ngang bằng nhau, khi một cái xác thối rữa thì cây cỏ lại mọc xanh tươi hơn. Vạn vật đều bị chi phối bởi những dòng năng lượng dục: cứ sinh ra, chết đi rồi lại tái sinh ở một vòng khác…  Nếu các động vật, thực vật có vẻ như chấp nhận sự chi phối này thì con người không thể chịu đựng được, và chỉ có con người mới mong mỏi tìm đến sự vĩnh hằng. Hãy thử ngẫm lại câu chuyện trong Sáng Thế Ký. Trên Thiên Đường mà Thượng Đế tạo ra, sự vĩnh hằng tồn tại, Adam và Eva ở đó trần truồng mà không có bất cứ sự ham muốn  dục nào. Thời gian dường như không tồn tại trên Thiên Đường cho đến khi Lucifer hóa thân thành con rắn và xúi bẩy Adam- Eva ăn quả táo trí tuệ, quả táo nhận thức về dục. Thiên Đường sụp đổ và con người bắt đầu sinh sôi nảy nở, già nua và chết đi, tuổi thọ càng ngày càng giảm. Người Thiên Chúa giáo coi rằng đây là tội lỗi tổ tông (“original sin”) và chỉ những người dẹp bỏ được những ham muốn tình dục thì mới có thể quay trở lại Thiên Đàng. Tại sao việc quay lại Thiên Đàng lại quan trọng đến thế với con người? Thật buồn cười là chính sự sợ hãi trước cái chết đã khiến cho con người sợ hãi tình dục và sợ hãi luôn cả sự sống trong nhiều thế kỷ mà các tôn giáo ức chế dục.  Nhưng vấn đề kiểm soát dục này ta sẽ trở lại ở phần sau. Ở đây, tôi muốn nói rằng năng lượng của dục là năng lượng của sự sống. Trong chiêm tinh học phương Tây, có hẳn một vị trí quản trị về Năng lượng Dục – Sinh- Tử – Tái Sinh. Chúng ta cũng thấy điều này trong hình tượng Thần Rượu Nho Dionysus của Hi Lạp. Trong các nghi lễ tôn giáo cổ đại Hy Lạp thờ Thần Rượu Nho, các tín đồ còn thực hiện các hành vi phối ngẫu. Thần Rượu Nho là vị thần bảo hộ sự sinh sôi nảy nở và cả sự tái sinh. Cho đến sau này, giáo đoàn Wicca của các phù thủy cũng tiếp thu những nghi lễ này từ giáo phái thờ Dionysus từ thời Hy Lạp cổ đại.

Bất cứ ai đã từng trải qua Tình dục, chứ không phải chỉ là sự giao phối, sẽ thấy rằng Tình dục thật sự cho chúng ta cái thoáng nhìn về Thiên Đường. Nếu ham muốn dục của Adam và Eva khiến chúng ta mất Thiên Đường thì hóa ra chính Tình dục làm thức dậy trong chúng ta những ký ức về Thiên Đường. Thiên Đường không phải là đời sống sung túc ở một cõi nào đó hiện ra trong trí tưởng tượng lúc làm tình, Thiên Đường là một lối nói ẩn dụ cho sự cực đỉnh sung sướng, sự hạnh phúc vô bờ bến. Bạn có biết mỗi ngày chúng ta có từ 50.000 đến 70.000 suy nghĩ một ngày, những suy nghĩ này không đi theo một hướng, nó là mớ hỗn tạp những cài cắm của bố mẹ, nhà trường, tôn giáo, xã hội… và chúng xung đột với nhau chỉ để trả lời câu hỏi: Làm thế nào để sinh tồn tốt nhất ở thế giới này.  Những xung đột trong tâm trí ấy khiến chúng ta bất hạnh, xung đột thậm chí còn không chấm dứt trong thời gian giao phối. Nhưng với Tình dục thì khác, sự xung đột này chấm dứt. Trong một thoáng rất ngắn đạt đến cực đỉnh của khoái lạc, tâm trí của chúng ta ngừng hoạt động, cảm giác về thời gian cũng biến mất, trong giây phút chúng ta chạm tới sự vĩnh hằng. Trong Kama Sutra, Vātsyāyana từng nói: “Tình yêu không quan tâm đến thời gian và sự kiểm soát”. Tình dục với sự nở hoa của Tình yêu thì con người không bận tâm về thời gian, tức là thoát khỏi ám ảnh về cái chết, thoát khỏi ám ảnh của cái chết, con người không cần phải quan tâm tới sự kiểm soát và những xung đột trong tâm trí nữa. Điều đáng tiếc là con người không kéo dài giây phút này mãi được và rồi bên cạnh sự ham muốn bất tử, con người nảy sinh thêm một ham muốn nữa: ham muốn kéo dài mãi sự khoái lạc, vì vậy, bắt đầu nảy sinh ra mọi loại kỹ thuật để kéo dài thời gian giao phối.

Cách thức con người ức chế ham muốn dục và Tình dục
Đứng trước sức mạnh không thể kiểm soát được của ham  muốn dục và năng lượng dục mạnh mẽ của loài người, trong lịch sử, nhiều hệ thống đã tìm mọi cách để kiểm soát nó nhưng đều thất bại. Cách kiểm soát dễ dàng và được “ưa chuộng” nhất của các hệ thống là ức chế và đè nén dục, mà biểu hiện rõ nhất trong các hệ thống tôn giáo như Thiên Chúa giáo và Phật giáo. Kinh điển của cả hai tôn giáo này đều cho rằng dục là một cái gì đó cần phải triệt tiêu. (Điều này không đồng nghĩa với việc nhất thiết Đức Thích Ca Mâu Ni và Chúa Jesus khuyên bảo con người phải làm thế, vì trải qua nhiều nghìn năm và bị các nhà cầm quyền sửa chữa, tôi thật sự không còn tin vào độ chính xác của các văn bản còn lại đến ngày nay; hoặc rằng các đệ tử đã hiểu lầm lời dạy thoát khỏi sự chi phối của dục thành một sự ức chế dục.)  Và thế là các tu sĩ, con chiên, đệ tử mất quá nhiều thời gian để tìm cách vùng vẫy thoát khỏi những ám ảnh và ham muốn dục hơn là nghĩ tới Thượng Đế và Phật tính của mình.

Khi các tôn giáo này bắt đầu hình thành hệ thống và có một sự “bắt tay” nào đó với chính quyền, các giáo lý trở thành hệ thống kiểm soát người dân. Các nhà cầm quyền cần niềm tin mù quáng vào tôn giáo để giữ trật tự trong nhà nước của mình, và một tôn giáo ức chế dục thì càng tốt. Nhờ thế, các giáo lý sai lầm về dục của Thiên Chúa giáo đã được lan truyền khắp Châu Âu trong đêm trường trung cổ, tiêu diệt mọi người đàn bà đẹp có sức mê hoặc vì nghi ngờ là phù thủy, thiêu đốt và tàn phá tàn tích của nền văn minh Hy Lạp cổ đại và thay thế vào đó bằng chủ nghĩa khắc kỷ. Trước thời Trung Cổ, châu Âu là vùng đất của dân Barbarian (mọi rợ), vẫn còn sống trong mô hình bộ lạc thị tộc, chiến tranh giải quyết vấn đề chiếm lĩnh đàn bà để duy trì nòi giống. Các giáo lý ức chế dục của nhà nước Công giáo La Mã đã “khai sáng” cho đám người mọi rợ này, thiết lập họ trong các tiêu chuẩn về đạo đức, giảm thiểu giết chóc và rất tiện cho quản lý dân cư. Không thể phủ nhận những lợi ích này, nhưng cũng không thể không kể đến hậu quả của sự trói buộc dục, đó là nó tạo nên rất nhiều ám ảnh về dục trong tâm trí con người. Ở trong thời kỳ thống trị của Thiên Chúa giáo, con người sợ hãi phù thủy, sợ hãi quỷ nhưng lại sợ bị phù thủy mê hoặc hay nằm mơ thấy việc giao phối với quỷ. Trong số các con quỷ nổi tiếng thời Trung Cổ phải kể đến quỷ Satan và nữ quỷ Lilith. Mọi giấc mơ về dục đều đổ lỗi cho việc Satan và Lilith hiếp dâm con người. Thực tế, đó là luồng năng lượng dục vô cùng lớn bị đè nén trỗi dậy và tâm trí con người tự bao biện cho mình bằng ngay chính những giáo lý họ được học.
Tại sao tình dục lại nguy hiểm?
Thêm chú thích
Phật giáo có phần nhẹ nhàng hơn Thiên Chúa giáo trong việc ức chế dục vì Phật giáo ít can thiệp vào quyền lực hơn, nhưng Phật giáo lập luận rằng chấm dứt dục là chấm dứt vòng luân hồi và đạt tới Niết Bàn. Nhiều thế hệ sư sãi bị mắc kẹt trong luận điệu này và dành nhiều kiếp để chiến đấu với dục. Nhưng một sự thật không thể chối bỏ là chừng nào con người còn ở trong thế giới vật chất, con người còn ở trong dục. Cái gì ám ảnh với các thày tu tới mức sợ hãi sự sống đến thế mà không thể vui thú trong luân hồi? Các tín đồ của họ đã bị họ làm hủy hoại đời sống tinh thần vì luận điệu này, các tín đồ mất dần sự nhạy cảm với cái đẹp và chỉ chăm chăm cầu giải thoát, quay lưng với sự sống. Đây là luận điệu lừa mị, bởi vì, nếu con người không cầu giải thoát nữa thì đâu còn vai trò của các thày tu đạo mạo, hệ thống nhà chùa sụp đổ vì không còn sự cúng dường. Nếu đọc trong kinh Kim Cương Bát Nhã, ta có thể thấy rằng Đức Thích Ca mong muốn con người vượt lên trên tính hai mặt của cuộc sống, của xấu và tốt, của sống và chết và đạt đến chữ “Vô”; điều này không có nghĩa rằng cắt đứt sự sống, mà là dù ở thái cực nào của thế giới vật chất, của cõi Ta Bà, một người đắc đạo cũng không bị đẩy xa khỏi cái “Vô” đó.

Các nhà nước thời phong kiến dù ở phương Đông hay phương Tây đều tạo ra những ức chế dục theo cách khác nhau. Các nhà nước phương Tây thì tận dụng giáo lý Công giáo La Mã, các nước phương Đông như Trung Quốc, Triều Tiên luôn tìm cách gò bó dục trong khuôn khổ của luân lý và vấn đề duy trì nòi giống. Các nhà nước không chỉ ức chế dục mà còn ức chế Tình dục, tức là cắt bỏ đi phần hòa hợp về mặt tinh thần. Dục chỉ được chấp nhận trong các mối quan hệ hôn nhân hoặc một vợ một chồng, hoặc đa thê. Hôn nhân một vợ một chồng của người phương Tây mặc dù đến nay vẫn được coi là mẫu mực nhưng đi kèm với nó là những scandal ngoại tình và sự lên ngôi của nhà chứa. Chế độ đa thê ở phương Đông được tạo dựng để duy trì nòi giống của đàn ông. Không rõ chế độ đa thê xuất hiện ở phương Đông từ bao giờ, nhưng có một thực tế có thể thấy rằng đây là cách phát tán gene của người đàn ông. Chế độ đa phu không hề giúp người phụ nữ phát tán gene hiệu quả bởi vì dù có lấy nhiều chồng thì người phụ nữ vẫn phải mang thai 9 tháng 10 ngày và 2 năm cho con bú, họ không thể giao phối trong quãng thời gian này. Trong khi ấy, người đàn ông vẫn có thể gieo rắc tinh trùng của mình ở nhiều đối tượng khác nhau trong một quãng thời gian ngắn. Chiến lược phát triển dân số này của người phương Đông khiến cho phương Đông thời phong kiến không quá ức chế dục như người hiện đại vẫn tưởng mà chỉ ức chế ham muốn Tình dục ở phụ nữ. Người phụ nữ vốn dĩ có năng lượng dục mạnh hơn đàn ông, nên đàn ông khó có thể kiểm soát được việc trong khi họ đi gieo rắc gene ở chỗ khác thì người phụ nữ của họ cũng đi tìm đối tượng khác để thỏa mãn sự khoái lạc. Ở Ả Rập, người phụ nữ bị cắt “mào gà”, cơ quan kích thích khoái lạc của phụ nữ. Ở phương Đông, người phụ nữ có chồng bị ngăn cấm giao tiếp với bên ngoài và xử tội “cho trôi sông” nếu bị phát hiện ngoại tình hay chửa hoang.
Nhiều thế kỷ bị đèn nén dục bằng cách này hoặc cách khác đã đẩy con người từ bản năng dục tự nhiên sang sự đạo đức giả và tâm trí con người hoàn toàn bị “đầu độc”. Trong đầu họ bị lấp đầy bởi dục, cho dù là căm ghét, khinh bỉ hay thèm muốn, khao khát. Osho gọi hiện tượng này là “dâm dục”. Đã từng có thời người ta né tránh nói về dục, né tránh đối mặt với nó. Thậm chí hiện nay, khi những lý thuyết về khai phóng đã giải thoát con người khỏi sự ràng buộc của tôn giáo và nhà nước phong kiến thì chúng ta vẫn chưa thể nói về dục một cách bình thường. Dục trở thành đề tài để cười đùa. Tại sao chuyện ăn uống không trở thành đối tượng cười đùa mà lại là dục? Bởi vì trong sâu kín trong chúng ta vẫn bị ý thức về việc phải che giấu dục, che giấu ham muốn và việc cười đùa là một biện pháp tâm lý tạo cho chúng ta ảo tưởng rằng chúng ta quá hiểu biết về dục như thể một bậc thày- một chuyên gia,  và tự bản thân chúng ta đã kiểm soát được nó. Thực tế là chúng ta vẫn bị dục chi phối. Chúng ta không cười đùa về tay chân, nhưng lại cười đùa khi nói đến dương vật và âm hộ. Điều đấy chứng tỏ rằng chúng ta vẫn chưa hoàn toàn tự nhiên với dục.

Cách thức các nhà nước hiện đại kích thích dục
Nếu nhà nước phong kiến ức chế dục thì ở các nhà nước hiện đại, dục được kích thích một cách vô tội vạ. Có phải đây đơn thuần chỉ là thái cực đối nghịch, là sự giải tỏa những ức chế dục? Cũng một phần, nhưng nguy hiểm hơn thế, nhà cầm quyền, truyền thông, các tập đoàn còn cố tình lợi dụng thực trạng để kích thích hơn nhằm kiếm lợi và làm mê muội tâm trí người dân.

Các nhà nước hiện đại đều được xây dựng trên nền tảng của các tập đoàn. Các tập đoàn chi phối các Đảng phái trong nhà nước, tác động đến chính quyền để chính quyền đưa ra các chính sách có lợi cho mình, sử dụng truyền thông để cài cắm các quan niệm sai lầm nhưng có lợi cho việc kích cầu, sử dụng hệ thống giáo dục để đào tạo ra những nhân công lao động xuất sắc thích hợp với hệ thống đó. Trong các nhà nước hiện đại của Âu – Mỹ, các cuộc tranh giành quyền lực không phải chỉ đơn thuần là của các Đảng phái mà còn là tranh giành thị trường. Truyền thông và giáo dục là những công cụ hữu hiệu cho các nhà nước hiện đại để duy trì quyền lực này. Tình dục cũng trở thành một cách hiệu quả nhất dùng để kích cầu trên các phương tiện thông tin.

Qúa dễ để thấy những hãng sản phẩm sử dụng yếu tố dục để lôi kéo sự thu hút của người dùng trên đủ các loại phương tiện truyền thông như báo giấy, truyền hình. Họ đã biết đánh vào sự ám ảnh không ngừng của con người và lôi kéo tâm trí. Hình ảnh khỏa thân của nam hoặc nữ trở thành một dạng” linh vật”, một “biểu tượng” để thôi miên. Nhưng những điều đó vẫn không nguy hiểm bằng ảnh hưởng của giáo dục. Việc đưa tình dục vào dạy ở nhà trường là điều cần thiết (với điều kiện những kiến thức đưa vào là khách quan); nhưng cái gây nguy hại cho dục lại đến từ một học thuyết nghe có vẻ không mấy liên quan: học thuyết tiến hóa của Darwin.

Học thuyết tiến hóa của Darwin cho rằng con người là dạng tiến hóa bậc cao của động vật có vú. Không bàn về tính đúng đắn của học thuyết này, vì cho đến giờ các chứng cứ khoa học còn chưa chứng minh được chắc chắn các lập luận về sự tiến hóa.  Tuy nhiên, có thể thấy cách hiểu này đã cấy vào tâm trí của con người một niềm tin hết  sức bệnh  hoạn: rằng con người cũng có phẩm chất động vật, và con người cũng giống như nhiều loài khác, cần phải sinh tồn và duy trì nòi giống. Tình dục, với góc nhìn của những người tin tưởng vào Darwin, tình dục chỉ là hành vi giao cấu giữa con đực và con cái, các giá trị tinh thần bị dẹp bỏ khỏi đời sống tình dục. Chỉ có ở thời của chủ nghĩa tư bản với luận điệu về tự do tình dục, các mối quan hệ hoàn toàn thú tính về tình dục mới được thừa nhận. Người ta có thể quan hệ dục thuần túy với bất cứ ai để thỏa mãn ham muốn mà  không cần bất cứ một sự gắn kết tinh thần nào. Điều này thậm chí còn không bằng cầm thú vì các loài thú có mục đích gieo rắc nòi giống của nó. Bao cao su, thuốc tránh thai… ra đời để phục vụ nhu cầu tình dục vô tội vạ của con người hiện đại. Thuốc kích dục và sex toy từ thời xa xưa đã có để kéo dài các cuộc làm tình, nhưng chỉ được lưu truyền trong bí mật, thì ở thế giới hiện đại, chúng trở thành mặt hàng mang lại lợi nhuận lớn.

Con người đương nhiên có phần thú tính ở bên trong, nhưng không phải tất cả. Kích thích dục là kích thích phần thú tính ấy lấn át những đặc tính khác của con người. Con người sẽ trở nên ham muốn nhiều hơn, khả năng chinh phục bạn tình trở thành tiêu chuẩn cho sự thành công, và muốn chinh phục hiệu quả thì con người phải sở hữu nhiều vật đắt tiền hơn, tức là mua nhiều hàng hóa hơn. Học thuyết Darwin, một cách sâu xa, đã bị lợi dụng để phục vụ cho nhà nước tư bản. Bởi vậy, cho đến nay, bất cứ nhà khoa học nào đưa ra bằng chứng phản đối học thuyết này thì đều bị buộc rời khỏi vị trí giảng viên đại học hoặc rời khỏi ghế của viện Hàn lâm.

Ở một số quốc gia hiện nay như Bắc Âu và Nhật Bản, dân số đang bị giảm nghiêm trọng. Nhật Bản sử dụng truyền thông để kích thích việc sinh đẻ, nhằm tăng dân số. Đây là một chiến lược sai lầm. Có vẻ như người đưa ra chủ trương này không hiểu gì về tình dục. Tình dục và sinh đẻ trên thực tế không cần lúc nào cũng phải liên quan đến nhau. Sau nhiều thế kỷ bị đối xử như một nô lệ tình dục phục vụ duy nhất một ông chủ vừa khô khan và hiếu chiến, tự do tình dục đã chỉ ra cho người phụ nữ thấy rằng việc có con chỉ làm cản trở khoái cảm trong tình dục vì năng lượng của cô ta bị chia theo nhiều hướng khác nhau. Vì thế, người phụ nữ có thể thoải mái tận hưởng cảm giác khoái lạc trong tình dục, và ngăn ngừa khả năng sinh con bằng các biện pháp tránh thai. Có thể tình trạng này đều diễn ra ở các dân tộc bị rơi vào tình trạng dân số già.
Rõ ràng, ngay cả khi trải qua mấy cuộc Cách mạng tình dục trên thế giới, con người vẫn chưa thoát khỏi nối ám ảnh với dục, và tình dục vẫn bị coi là một điều gì đó bí hiểm, và nguy hiểm, nguy hiểm vì sự mê hoặc đến khó lường của nó.

Tự do tình dục liệu có phải giải pháp?
Có nên để con người tự do Tình dục? Câu hỏi này gây rất nhiều tranh luận. Tôi trả lời rằng: Có, chúng ta có thể để tự do tình dục. Nhưng nhớ rằng Tự do Tình dục chứ không phải Tự do dâm dục, Tự do giao phối bừa bãi. Nếu một mối quan hệ đạt đến sự giao hòa cả thể xác lẫn tâm hồn thì không có gì phải ngăn cấm. Nhưng tự do giao phối sẽ đưa chúng tay quay trở về thời Barbarian của phương Tây, quay trở về với sự thú tính, khi các con đực chém giết nhau để tranh nhau quyền giao phối. Nhưng tự do Tình dục không phải giải pháp duy nhất tối ưu. Tự do Tình dục về lâu dài sẽ nhanh chóng biến thành Tự do giao phối, vì bằng con đường Tình dục, con người không duy trì được trạng thái Thượng Đế mãi mãi, và càng tìm kiếm, con người lại càng không thể tìm được.

Hãy nhớ lại khái niệm của năng lượng dục, đó chỉ đơn thuần là năng lượng của sự sống, năng lượng này còn cho con người một khả năng đặc biệt: khả năng sáng tạo. Đừng nghĩ sáng tạo chỉ đơn thuần là hành vi của nghệ sĩ và các nhà phát kiến. Sáng tạo là khi con người dồn năng lượng cho một việc nào đó mang tính chất đột phá cho bản thân mình và xã hội. Không có nghĩa rằng theo con đường sáng tạo thì các ám ảnh dục được giải quyết hoàn toàn, nhưng chắc chắn tâm trí con người sẽ giảm các suy nghĩ ham muốn dục đi rõ rệt. Pháp tu Kundalini của  các thày tu vùng Hymalaya – Tây Tạng đã phân tích rất rõ cách luân chuyển của năng lượng dục. Từ “Kundalini” có nghĩa là “con rắn” – một cách ví von rằng dòng năng lượng luân chuyển như rắn. Đa số con người, con rắn này cuộn tròn ở luân xa 1 – luân xa dục. Khi ham muốn dục xuất hiện, dòng năng lượng này xoay tròn ở luân xa 1. Các thày tu Kundalini phải thực hành sao cho con rắn này thoát khỏi cuộn tròn và vươn mình lên trên, kích hoạt các luân xa khác, đặc biệt là đẩy tung luân xa 7 – luân xa kết nối với Thượng Đế. Điều này khá tương xứng với Tình dục, trong quan hệ Tình dục không chỉ có luân xa 1  mà cả luân xa 4- luân xa tình yêu cũng hoạt động, rất thuận tiện cho dòng chảy năng lượng vươn lên cao nhanh hơn và sớm đạt tới trạng thái Thượng Đế. Ở đời sống sáng tạo, con người vươn tới những điều mới mẻ hơn, ý nghĩa hơn, nhất là khi con người dồn sức để kiến tạo các công trình lớn lao, sáng tác các tác phẩm vĩ đại, dòng năng lượng này được kích theo chiều hướng đi lên liên tục và không còn bị xoay tròn trong luân xa 1 nữa. Đương nhiên, cách này không dành cho số đông, nhưng là cách ít gây những hậu quả khó lường nhất và mang lại nhiều lợi ích nhất.

Kết luận

Thực ra Tình dục không thú vị cũng không nguy hiểm, nó không linh thiêng cũng chẳng tội lỗi. Tình dục liên tục bị đẩy từ thái cực này sang thái cực khác chỉ bởi chính những quan niệm bị cài đặt trong tâm trí con người. Nhiều nhà Cách mạng tình dục hay những người hô hào tự do Tình dục cho rằng giải phóng cho cơ quan sinh dục có thể đưa con người đến tự do tư tưởng, nhưng thực ra chỉ những người tự do tư tưởng mới có đời sống Tình dục đúng nghĩa. Cảm giác khoái lạc, trạng thái Thiên Đường, hóa ra lại không phải do cơ quan sinh dục quyết định, mà lại do chính não bộ quyết định, hoặc thậm chí những phần sâu hơn thế, tinh thần của con người quyết định.
Hà Thủy Nguyên
*Có một điều nữa cần cảnh báo với những độc giả của bài viết này: Nếu những bức hình tôi sử dụng trong bài báo khiến các bạn thấy bài này hấp dẫn hơn, các bạn có thể tưởng tượng ra những gì truyền thông đang làm với tâm trí của bạn.

Theo : bookhunter

Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2013

điều kiện tự nhiên ở bên dòng sông huyền thoại AMAZON

 
điều kiện tự nhiên ở bên dòng sông huyền thoại  AMAZON
dòng sông huyền thoại  AMAZON

Sông Amazon chiếm khoảng 20% tổng lưu lượng nước ngọt cung cấp cho các đại dương . Chỗ rộng nhất của sông vào mùa khô khoảng 11 km (6,8 dặm). Vào mùa mưa lũ, chỗ rộng nhất của sông có thể lên đến 40 km (24,8 dặm) và khu vực cửa sông có thể rộng tới 325 km (202 dặm) . Do độ rộng của sông như vậy, người ta còn gọi là sông biển.


Sông Amazon được Francisco De Orellan phát hiện năm 1542, ban đầu nó được đặt tên là Riomar. Con sông Amazon thuộc hàng dài nhất thế giới nằm ở khu vực Nam Mỹ được xác định đã 11 triệu năm tuổi. Nó có hình dạng như hiện nay từ 2,4 triệu năm trước. Đây là kết quả nghiên cứu của những nhà khoa học tại Đại học Liverpool Anh, Đại học Amsterdam Hà Lan và công ty dầu mỏ quốc gia Brazil Petrobras. Họ đưa ra kết luận này nhờ nghiên cứu những mẫu trầm tích lấy từ hai lỗ khoan ở cửa sông Amazon. Trước nghiên cứu này, độ tuổi chính xác của sông Amazon vẫn là một bí ẩn. Các nhà nghiên cứu vốn không thể xâm nhập vào Amazon 
 
điều kiện tự nhiên ở bên dòng sông huyền thoại  AMAZON
dòng sông huyền thoại  AMAZON

- một cột trầm tích dày tới 10 km - ở con sông này. Công ty Petrobras đã quyết định khoan hai lỗ ở cửa sông Amazon - một cái sâu tới 4,5 km dưới mực nước biển - để lấy trầm tích phục vụ cho nghiên cứu. "Trầm tích của sông cung cấp dữ liệu về khí hậu và địa lý thời cổ đại của khu vực", Jorge Figueiredo - thuộc khoa nghiên cứu đại dương và trái đất Đại học Liverpool - cho biết. "Nghiên cứu này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp hiểu biết cho chúng ta về địa lý học Nam Mỹ cũng như sự tiến hóa sinh vật biển ở khu vực Amazon và vùng bờ biển Đại Tây Dương". Tuy nhiên, Amazon, dù được xem là dài nhất thế giới, vẫn khá "trẻ" so với nhiều con sông khác trên thế giới. "Sông New ở Bắc Mỹ và Nile ở châu Phi được cho là đã hàng trăm triệu năm tuổi", Carina Hoorn, thuộc Đại học Amsterdam, cho hay.
ÁNH SÁNG TRI THỨC

Thế giới động vật ở nước Nga

Thế giới động vật ở nước NgaThế giới động vật ở nước Nga
Từ đỉnh núi tuyết sa mạc, Caucasus không đơn thuần chỉ là một dãy núi, với môi trường sống bao gồm cả rừng, đồng cỏ núi cao và các dãy đá muối khô cằn, động vật hoang dã nơi đây thật sự là niềm tự hào của phần còn lại nước Nga với các giống loài như: Heo rừng, Linh Miêu Á-Âu, nhím Âu tai dài, Ngưu Hoàng Ibex, trên cao nguyên thì có bò rừng bizon châu Âu hiếm và loài thằn lằn kính thực sự kỳ lạ, khu vực này là một viên ngọc quý trong vương miện hoang dã của Nga


Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013

Hành trình truy tìm rắng độc của Kenny và Zoltan tại Việt Nam ( 1 tập )

Hành trình truy tìm rắng độc của Kenny và Zoltan tại Việt Nam ( 1 tập )
Hành trình truy tìm rắng độc của Kenny và Zoltan tại Việt Nam

Câu chuyện về hai nhà khoa học Kenny và Zoltan sang Việt Nam trùy tìm các loài rắn độc. Nhằm mục đích nghiên cứu và giúp chúng ta tìm ra những loại thuốc giải hữu hiệu nhất chống lại nọc độc rắn


Việc xử lý vết rắn cắn cũng thay đổi tùy theo từng loại vết cắn. Phương pháp thông dụng và hiệu quả nhất là thông qua huyết thanh kháng nọc rắn (antivenom hay antivenin), một loại huyết thanh được chế ra từ nọc rắn. Một số loại antivenom là chuyên biệt theo loài (đơn hóa trị, đặc hiệu) trong khi một số khác được chế ra để sử dụng cho nhiều loài (đa hóa trị). Chẳng hạn tại Hoa Kỳ, gần như tất cả các loài rắn độc đều là rắn vipe hốc lõm (phân họ Crotalinae trong họ Viperidae), ngoại lệ duy nhất là các loài rắn san hô (các chi Micrurus, Micruroides thuộc họ Elapidae). Để sản xuất antivenom, hỗn hợp nọc của các loài rắn khác nhau như rắn chuông (Crotalus, Sistrurus), rắn đầu đồng (Agkistrodon contortrix) và rắn miệng bông (Agkistrodon spp.) được tiêm vào cơ thể ngựa với liều lượng tăng dần cho tới khi ngựa được miễn dịch. Sau đó máu được chiết ra từ ngựa đã miễn dịch. Huyết thanh được tách ra để tinh chế tiếp (để loại bỏ các protein ngoại lai) và sấy thăng hoa. Nó được hoàn nguyên với nước cất và trở thành huyết thanh kháng nọc rắn. Vì lý do này mà những người bị dị ứng với ngựa rất dễ bị dị ứng với huyết thanh kháng nọc rắn[3]. Huyết thanh kháng nọc rắn cho những loài nguy hiểm hơn (như mamba (Dendroaspis), taipan (Oxyuranus) và rắn hổ mang (Naja)) được sản xuất theo phương pháp tương tự tại Ấn Độ, Nam Phi và Australia, mặc dù các loại huyết thanh kháng nọc rắn này là đặc hiệu theo loài. Một người đàn ông 45 tuổi ở Mỹ khẳng định có thể miễn dịch với 100 loài rắn độc khác nhau bằng cách thường xuyên cho các loài rắn độc khác nhau cắn vào tay mình. Ông có niềm đam mê mãnh liệt với loài rắn, đặc biệt các loài rắn độc. Trong nỗ lực để tự xây dựng cho bản thân một khả năng miễn dịch với các loài nọc độc rắn,anh này đã tự tiêm vào tay mình chất độc đã được pha loãng của nhiều loài rắn độc khác nhau, nhằm mục đích chứng minh con người có thể trở nên miễn dịch với chất độc của rắn nếu dần dần làm quen với nọc độc của chúng[4] và sau đó ông đã thử bằng cách để một loài rắn có tên black mamba, một trong những loài rắn nguy hiểm nhất thế giới cắn mình[5].

Những Loài Rắn Nguy Hiểm Nhất Châu Á ( 1 tập )


Rắn hổ mang Ấn Độ là một trong số những loài rắn độc nhất thế giới, chúng có thể giết người trong thời gian ngắn.

Rắn hổ mang Ấn Độ, còn được gọi là rắn hổ mang đeo kính. Trong số những người ở Ấn Độ chết vì rắn thì chủ yếu có nguyên nhân từ loài này.
Rắn Bitis arietans là một loài rắn độc, được phát hiện chủ yếu ở các vùng thảo nguyên, đồng cỏ, kéo dài từ vùng Maroc tới Arab và toàn bộ châu Phi, trừ vùng sa mạc Sahara và vùng rừng nhiệt đới.



Rắn hổ mang Ai Cập là loài rắn cực độc. Giới khoa học thường thấy chúng ở châu Phi và bán đảo Ả Rập. Loài này được xem là một trong những loài Naja lớn nhất ở châu Phi. Rắn hổ mang Ai Cập trưởng thành có thể dài tới 2 m, thậm chí 3 m.
Rắn hổ mang Ai Cập.

Rắn lục jerdoni (Protobothrops jerdonii). Loài rắn độc này có thể giết chết bất cứ loài động vật nào lớn hơn nó gấp nhiều lần. Nọc độc của chúng sẽ tấn công các tế bào trong cơ thể, gây phù nề, hoại tử nếu không kịp chữa trị.
Rattlesnake

Vipera russelli Formosensis là một phân loài của rắn độc Viper, được tìm thấy ở khu vực Đông Nam Á, miền nam Trung Quốc.
Rắn Lachesis.

Rắn hổ mang chúa, là loài rắn độc dài nhất thế giới với chiều dài 5,6 m. Chúng sống chủ yếu ở Ấn Độ và Đông Nam Á. Nọc độc của rắn hổ mang chúa chủ yếu là đầu độc thần kinh, chúng có thể giết chết người chỉ bằng một cú cắn.
Vipera russelli Formosensis

Loài rắn đen Dendroaspis polylepis, là loài rắn độc dài nhất châu Phi, với chiều dài thân từ 2,5 đến 3,2 m, thậm chí có những con dài tới 4,45m. Chúng còn là loài rắn nổi tiếng hung hăng. Chúng thường săn mồi vào ban ngày, chủ yếu là chuột, sóc, thỏ, gà, đôi khi là con rắn nhỏ khác.

Khám Phá Vũ Trụ - Hiện tượng thời tiết bất thường trong vũ trụ ( 1 tập )


Thời tiết là tập hợp các trạng thái của các yếu tố khí tượng xảy ra trong khí quyển ở một thời điểm, một khoảng thời gian nhất định như nắng hay mưa, nóng hay lạnh, ẩm thấp hay khô ráo.Hầu hết các hiện tượng thời tiết diễn ra trong tầng đối lưu Thuật ngữ này thường nói về hoạt động của các hiện tượng khí tượng trong các thời kì ngắn (ngày hoặc giờ), khác với thuật ngữ "khí hậu" - nói về các điều kiện không khí bình quân trong một thời gian dài. Khi không nói cụ thể, "thời tiết" được hiểu là thời tiết trên Trái Đất.
Thời tiết bị chi phối bởi sự chênh lệnh áp suất không khí giữ nơi này và nơi khác. Sự khác biệt về áp suất và nhiệt độ có thể xảy ra do góc chiếu của ánh sáng tại một điểm đang xét, giá trị này thay đổi theo vĩ độ tính từ vùng nhiệt đới. Sự tương phản mạnh về nhiệt độ không khí giữa vùng nhiệt đới và cực làm sản sinh dòng chảy không khí mạnh.Hệ thống thời tiết ở những vùng vĩ độ trung bình như xoáy thuận ngoài vùng nhiệt đới (extratropical cyclone) gây ra bởi sự bất ổn định về dòng chảy không khí mạnh này. Do trục quay của Trái Đất hơi nghiêng so với mặt phẳng quỹ đạo nên ánh sáng mặt trời tạo thành các góc khác nhau vào những thời điểm khác nhau trong năm. Trên bề mặt Trái Đất, hàng năm nhiệt độ thường dao động trong khoảng ±40 °C (−40 °F đến 100 °F). Qua hàng ngàn năm, sự thay đổi của quỹ đạo Trái Đất ảnh hưởng đến số lượng và sự phân bố năng lượng mặt trời tiếp nhận được trên Trái Đất và ảnh hưởng đến khí hậu trong thời gian dài cũng như sự biến đổi khí hậu.

 
Chúng ta đang dần bước vào một giai đoạn thời tiết tồi tệ nhất, kỳ cục nhất và hung dữ nhất từng có trong vũ trụ. Hãy thắt chặt dây an toàn, vì đây có thể là một chuyến đi đầy chông gai… 

Khám Phá Vũ Trụ - Những thiên hà xa lạ ( 1 tập )





 


Thiên hà là một tập hợp từ khoảng 10 triệu (107) đến nghìn tỷ (1012) các ngôi sao khác nhau xen lẫn bụi, khí và có thể cả các vật chất tối xoay chung quay một khối tâm. Đường kính trung bình của thiên hà là từ 1.500 đến 300.000 năm ánh sáng. Ở dạng đĩa dẹt, thiên hà có các hình dạng khác nhau như thiên hà xoắn ốc hay thiên hà bầu dục. Khu vực gần tâm của thiên hà có kích thước ước chừng 1.000 năm ánh sáng, và có mật độ sao cao nhất cũng như kích thước các sao lớn nhất.
http://www.khoahoc.com.vn/photos/image/072012/28/galaxy.jpg


Dù vật chất tối lý thuyết dường như chiếm khoảng 90% khối lượng đa số thiên hà, tình trạng của những thành phần không nhìn thấy được này vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Có một số bằng chứng cho thấy rằng những hố đen khối lượng siêu lớn có thể tồn tại tại trung tâm của đa số, nếu không phải là toàn bộ, các thiên hà.

Không gian liên thiên hà, khoảng không nằm giữa các thiên hà, được lấp đầy plasma loãng với mật độ trung bình chưa tới một nguyên tử trên mỗi mét khối. Có lẽ có hơn một trăm tỷ (1011) thiên hà trong khoảng không gian vũ trụ có thể quan sát được của chúng ta 
http://www.hdwallpapersplus.com/wp-content/uploads/2012/08/21-galaxy.jpg

Trái Đất nằm trong một hệ mặt trời thuộc một thiên hà có tên là Ngân Hà; Hệ Mặt Trời của chúng ta nằm ở phía ngoài rìa của đĩa thiên hà Ngân Hà, trên nhánh Tráng Sĩ. Vào các buổi tối mùa hè, từ Trái Đất nhìn vào tâm sẽ thấy một dải các sao thường được gọi là dải Ngân Hà. Tuổi của Ngân Hà được ước lượng vào khoảng 13 tỷ năm, ngoài ra tuổi đời còn được tính bằng số vòng quay của nó.
Thiên hà gần Ngân Hà nhất có tên là thiên hà Andromeda. Các thiên hà ở gần nhau có xu hướng tiến lại gần và sát nhập vào nhau, tạo thành một thiên hà lớn hơn.
Các thiên hà cũng giống như các hành tinh và các hệ hành tinh, chúng cũng tập hợp thành những nhóm gọi là Quần tụ thiên hà. Các Quần tụ thiên hà lại họp lại trở thành Siêu thiên hà...


Khám Phá Vũ Trụ - Hố vũ trụ " 1 tập "

Các nhà thiên văn học đã tìm được lời giải sự ra đời của những "gã khổng lồ hố đen" trong vũ trụ. 

Trong nhiều năm qua, các nhà thiên văn học vẫn chưa giải thích được lý do vì sao dải Ngân Hà của chúng ta lại nằm lọt thỏm giữa một rừng hố đen siêu khối lượng (SMBH - Supermassive Black Hole). Nhưng ngày nay, có vẻ như các nhà thiên văn học đã giải được bí ẩn sự ra đời của những "gã khổng lồ" của thiên hà này trong lịch sử sơ khai của vũ trụ. 

Giải mã bí mật hố đen ở dải Ngân Hà 2 triệu năm trước 1

Đó chính là sự va chạm và kết hợp giữa các thiên hà nguyên thủy, các hố đen của chúng sáp nhập vào nhau, dần dần trở thành một hố đen siêu khối lượng lớn, nặng hơn Mặt trời ít nhất 4 triệu lần.

Đồng tác giả nghiên cứu - Philip Maloney thuộc Đại học Colorado ở Boulder cho biết: "Nếu chúng ta có thể quay lại 2 triệu năm trước và quan sát chúng, biết đâu tình hình sẽ rất khác - lỗ đen của dải Ngân Hà có thể sáng hơn 10 triệu lần. Tôi cho là, bất cứ ai cũng hi vọng rằng, SMBH có thể thay đổi độ sáng trên quy mô lớn trong thời gian ngắn như vậy".

Các nhà thiên văn học trước đó đã nghi ngờ có một vụ nổ từ hố đen "ngủ đông", nhưng bây giờ, họ tin rằng, mình đã tìm thấy một "dấu ấn hóa thạch" bữa ăn cuối cùng của con "quái vật vũ trụ" kia.

Giải mã bí mật hố đen ở dải Ngân Hà 2 triệu năm trước 2
Nhóm nghiên cứu nghi ngờ, dòng khí rực rỡ ngoài thiên hà có thể là dấu vết hóa thạch của đợt phun trào SMBH hai triệu năm trước.

Nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu về những dải khí quấn quanh dải Ngân Hà hay còn gọi là dòng chảy Magellan. Từ đó suy ra là: chính năng lượng phun trào từ SMBH 2 triệu năm trước đã khiến dòng khí hydro có ở dòng chảy Magellan sáng lên và được ion hóa, giống như ánh sáng cực quang chúng ta thấy trên Trái đất. Sự ion hóa này của dòng Magellan đã khiến các nhà khoa học phát hiện ra nó 2 thập kỷ trước. 

Giải mã bí mật hố đen ở dải Ngân Hà 2 triệu năm trước 3

Mới đây, các nhà khoa học đã chỉ tiếp ra được bằng chứng về vụ phun trào trong quá khứ của hai bong bóng khổng lồ phun ra các chùm tia gamma ở trung tâm dải Ngân Hà. 

Theo đó, tia hồng ngoại và tia X đã xẻ thêm nhiều những đám mây nhỏ quay quanh dải Ngân Hà. Các nhà thiên văn học hiện nay tin, nhiều đám mây khí quay quanh SMBH có thể được kích hoạt, tạo thành vụ nổ trong tương lai. Tuy nhiên, nó sẽ không gây ra mối đe dọa cho Trái đất.

Nghiên cứu được công bố trên Astrophysical Journal.

National Geographic

Thứ Sáu, 25 tháng 10, 2013

Báo cáo về bệnh Ung thư


----Giới thiệu---- 
Bộ phim này dành để tưởng nhớ đến Clara Corriher, và cũng như hàng triệu trường hợp khác chưa được kể đến, đã đặt niềm tin vô vọng vào ngành công nghiệp ung thư.
Clara Corriher (1937-2010) Sau khi tinh thần và thể chất của cô đang dần hủy hoại ( ví dụ như: “chemo-brain” hóa trị gây suy giảm chức năng nhận thức của não), Bác sĩ điều trị ung thư của Clara đã điều cô xuống một cái trạm xá. Điều trị viên của Clara, Nick, không muốn chứng kiến cảnh cô chết. Thế nên cô đã bị hất cẳng ra khỏi bệnh viện, mặc dù chỗ này còn tới hơn 50% chiếc giường trống. Nhân viên trạm xá duy trì cô trong tình trạng hôn mê bằng thuốc, do đó Clara sẽ không trở thánh gánh nặng cho họ. Họ hoàn toàn để cô trong trình trạng suy dinh dưỡng và mất nước. Họ lại gây mê cô ấy mỗi khi cô đủ tỉnh táo để kêu gọi sự giúp đỡ. Người thân và gia đình đã được trấn an tiếng thở thoi thóp bằng thứ âm thanh sôi sục. Điều trị như thế được coi là bình thường, thậm chí còn cao thượng, bởi những người trong cuộc. Bỏ đói tới chết là lối “đối xử nhân đạo” ở Nữu Ước, Và nó luôn luôn phù hợp hơn là cố gắng tìm ra những liệu pháp thay thế.
“Càng biết ít càng thi hành nghĩa vụ tốt” -George Garquhar
-----Khải huyền của dịch bệnh---- 
Ung thư là một phần tất yếu của cuộc sống. Một hệ thống miễn dịch khỏe mạnh loại bỏ lượng tế bào ung thư được loại bỏ gần với mức mà chúng được tạo ra. Bùng phát ung thư trên diện nhỏ đã từng tồn tại vào những thời xa xưa. Nó được ghi nhận tại các tàn tích chứa nồng độ chì mức cao ở Roma và Ai Cập. Trước thế kỷ 20, ung thư hiếm gặp đến nỗi người ta chỉ xem nó như một loại bệnh không rõ triệu chứng. Sau cách mạng công nghiệp của thế kỷ 20, loài người đã tiếp xúc với hàng vạn loại độc tố mới, bao gồm các chế phẩm hóa dầu, Flouride, Chlorine và chất phóng xạ. Theo sau đó là nhựa. Sự tấn công vào hệ miễn dịch phức tạp của chúng ta bằng một loại thế hệ phân bón hóa học mới, là loại thiết kế để làm suy kiệt các chất dinh dưỡng quan trọng có từ đất trồng. Phần lớn những người sống trong đất nước công nghiệp hóa, đặc biệt là người Mỹ, không hề nhận ra rằng họ đang mắc chứng suy dinh dưỡng mãn tính. Chứng béo phì đã bùng nổ, bởi vì mọi người đang ở trong trạng thái “giả đói” dù cho có ăn bao nhiêu đi nữa, chứng này quay ngược lại kích thích lối ăn uống nghèo nàn, khiến các vấn đề xuống dốc về dinh dưỡng còn trầm trọng hơn nữa. “ Thực tế đáng báo động nằm ở thực phẩm (trái cây, rau quả và ngũ cốc), bây giờ dù có nâng lên hàng triệu mẫu đất cũng không cung cấp đủ số lượng, chúng ta đang chết đói – việc chúng ta ăn được bao nhiêu cũng chẳng còn là vấn đề nữa” - Văn bản Thượng Nghị Viện Mỹ số 264 - Tiến Sĩ – Bác Sĩ Y khoa Michael Schachter
Phơi nhiễm phóng xạ, suy dinh dưỡng, và các loại độc tố hòa trộn với nhau tạo nên loại bệnh cảnh có tên là ‘nhiễm toan’, đó là ung thư không biểu hiện giai đoạn đầu. Điều này càng diễn tiến hơn về sau. “Chlorine là một kẻ đầu độc và giết người đứng đầu của thời hiện đại. Khi dứt được một triệu chứng bệnh này của nó, thì một cái khác lại lòi ra. Hai thập kỷ trước, khi chúng ta bắt đầu uống nước nhiễm Chlor vào năm 1904, thì cho đến hiện tại đã bùng phát các vấn đề về tim mạch, ung thư và lão hóa”. - Tiến Sĩ - Bác sĩ Y khoa Joseph M.Price
Nếu Flour đổ xuống sông, sông ô nhiễm. Nếu đổ xuống hồ, hổ ô nhiễm, nhưng nếu đi vào hệ thống lọc nước uống thì lại không bị ô nhiễm. Thật là thần kỳ. - Tiến Sĩ J. William Hirzy, E.P.A.
“ Trích từ quyển cẩm nang, “Chất độc của các Sản Phẩm Thương Mại”, thì Flour độc hơn chì, và chỉ ít độc tính hơn Asen một chút. Đó là loại chất độc được tích lũy vào trong xương hàng năm.” - Tiến Sĩ – Bác Sĩ Y khoa Michael Schachter
“ Theo nghiên cứu của ngành dịch tễ học, vào giữa những năm 70 bởi Tiến Sĩ Dean Burk, chủ nhiệm khoa hóa học tế bào của viện Ung thư quốc gia, đã chỉ ra rằng 10.000 hoặc nhiều hơn nữa những ca ung thư tử vong có liên quan đến flour, xảy ra hằng năm ở Hoa Kỳ. Năm 1989, tác nhân flour có khả năng biến đổi các tế bào bình thường thành tế bào ung thư đã được chứng nhận bởi phòng thí nghiệm quốc gia Argone”. - Tiến Sĩ – Bác Sĩ Y khoa Michael Schachter
Các công ty hóa chất đang tìm kiếm những cải tiến đề đầu độc chúng ta mỗi ngày. Có tới hàng vạn hợp chất độc hại trong thực phẩm. Dưới đây chỉ là một vài trong hàng ngàn ví dụ điển hình Bạn nghi ngờ rằng một lát thịt như thế này sẽ làm tăng khả năng mắc phải ung thư của bạn, bởi vì đây là thịt đỏ, ẩn chứa bên trong tất cả những miếng thịt đó.
Uy tín chính là nhờ bối cảnh thành lập ra ngành công nghiệp hóa chất Bản chất của thịt trong trạng thái tự nhiên là vô hại. Thực chất, ung thư được gây ra bởi muối Natri nitrat và kali nitrat được các nhà máy thực phẩm và hóa chất tẩm ướp vào trong “thịt đỏ”. Điều này đã được phía các nhà khoa học xác nhận hàng chục lần, nhưng đừng có mà trông mong sẽ nghe được nó từ phía bác sĩ điều trị của bạn. Các thực phẩm hữu cơ không bao giờ được các nhà máy thực phẩm hay hóa chất sử dụng trong quá trình nghiên cứu điều chế, bởi vì kết quả luôn bị thua lỗ.
Lấy một ví dụ về trường hợp của những quả trứng. Chuỗi thức ăn – trứng gà ta thì không tác động bất lợi đến việc hấp thụ cholesterol. Việc nghiên cứu đầu tiên là ở những quả trứng ung, bột vỏ trứng được thải ra từ các trại gà công nghiệp. Đó là cách mà họ thu mua dữ liệu để có được cái chứng nhận “khoa học” độc quyền, đúng như trong dự định ban đầu của mình.
Họ muốn chúng ta phải tin rằng bằng cách nào đó chúng ta đã bị ốm bởi những loại thực phẩm tự nhiên, một cái chuyện chưa bao giờ xảy ra trong suốt 9.000 năm nay, thay vì thừa nhận rằng chúng ta phát bệnh bởi thuốc độc của họ. Họ đã thành công rồi đó Giống gà này thì có thịt chắc nịch hơn bất kì con gà ta nào bạn có thể tìm được, và đó là một dấu hiệu tốt. Đó là do hầu hết các giống gà của Mỹ đều được ăn Asen ngay từ lúc mới sinh. Những giống gà bị nhiễm độc thì tư khắc chúng sẽ béo, chẳng cần biết chúng ăn uống ra sao, cứ như thế thôi là chúng đã được bán với cái giá cao hơn. Cái quá trình kinh khủng này đã được FDA thông qua vào năm 1944, và đó là chuyện “bình thường” Bạn có nhận được cái khuyến cáo lượng Asen mỗi ngày là bao nhiêu chưa? Nơi nào trong cái bao tử của bạn bị rối loạn, nơi đó luôn có hoạt tính phóng xạ pepto. Bismuth luôn có hoạt tính phóng xạ.
----Chiến trường--- 
 Khi mà các bác sĩ tiến hành đình công ở Israel vào năm 1983, và them một lần nữa vào năm 2000, con số ca tử vong đã giảm xuống còn 50%. Năm 1976, số lượng các ca tử vong ở Los Angeles giảm 18%, khi các bác sĩ L.A. tiến hành đình công trong vòng 1 tháng. Kiểu hình các bác sĩ đình công như thế này đã được nhân rộng gấp 5 lần trên toàn thế giới.
Con số tử vong bởi thuốc và các phương pháp điều trị ung thư hàng năm vượt ra ngoài con số tử vong bởi chiến tranh trong lịch sử nước Mỹ.
Theo lần ghi nhận gần đây nhất trong dữ liệu điều tra dân số Hoa Kỳ (2005), ung thư là 2 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong ở Mỹ, chỉ trước các tác dụng phụ của thuốc một chút.
Tiền công nghiệp hóa và tỷ lệ ung thư ở thời điểm hiện tại: cứ 25 người thì có 1 người chết vì ung thư vào năm 1900. Hiện nay, cứ 4 người thì có 1 người chết vì ung thư, phần lớn các ca tử vong là do thuốc. 41% người mỹ sớm muộn gì cũng sẽ bị chẩn đoán là mắc bệnh ung thư. Hầu hết những người Mỹ đang vào giai đoạn tiền ung thư, đều được chẩn đoán là bị nhiễm toan.
Liệu pháp hóa trị và xạ trị được cho là phương pháp điều trị ung thư khoa học nhất. Tuy nhiên, những con số khoa học đó chẳng ăn khớp gì với nhau.
Tính trung bình, Liệu pháp hóa trị và xạ trị chỉ có hiệu quả 4-5% trong cả một quá trình phục hồi dai dẳng. 100% quá trình điều trị đều độc hại.
Cụm từ ‘điều trị thành công’ được các bác sĩ chuyên khoa ung thư và y văn định nghĩa, tức là không có các khối u (chẳng có tí dính dáng gì đến ung thư) trong vòng 5 năm, và họ tiếp tục đếm con số bệnh nhân ‘sống sót’, dù cho 6 năm sau là những người này có chết đi chăng nữa, những con số này tiếp tục được họ xào nấu thành tỷ lệ chữa bệnh của mình. Đây là một trong những cách mà khoa học điều chế cho ra đúng thuốc khớp với những con số của mình.
“ Những nghiên cứu của tôi chỉ ra rằng, những bệnh nhận ung thư không điều trị sống lâu hơn gấp 4 lần những bệnh nhân điều trị. Đối với các loại ung thư điển hình, thì người từ chối điều trị có thể sống giao động trong vòng từ 12 đến nửa năm. Còn những ai chấp nhận phẫu thuật, hay các phương pháp trị liệu khác [ hóa trị, xạ trị, cobalt] chỉ có một mức trung bình là 3 năm.” -Tiến sĩ Hardin Jones, bộ môn sinh lý học, đại học California, Berkeley. Số ca trẻ em được chữa khỏi chứng Hodgkin thì cứ hơn 18 ca là có khả năng phát triển các hậu chứng thứ cấp của khối u ác tính. Các rũi ro về bệnh bạch cầu tăng đáng kể tử sau 4 năm phương pháp điều trị thành công kết thúc, và đạt sự ổn định sau 14 năm, nhưng nguy cơ tái phát triển các dạng u đặc vẫn giữ nguyên ở mức cao và đạt ở mức 30% trong vòng 30 năm. - Tạp chí y học New England
Ung thư bùng phát dạng thứ cấp bị gây ra bởi phương pháp điều trị chết người và kinh hoàng hơn nhiều so với loại ung thư ban đầu.
Tất cả những phương pháp điều trị hạt nhân và hóa trị được biết là căn nguyên gây ra và di căn ung thư. Những phương pháp vô lý này được gọi là “biết được mặt trái của hiệu quả”. Động thái sàng lọc để phân loại ung thư cũng cùng một kiểu với phương pháp điều trị, đưa ra càng nhiều trường hợp bệnh nhân nhiễm phóng xạ và các độc chất công nghiệp càng tốt. Đây là lý do mà con số mắc bệnh ung thư vú bùng phát cùng với sư gia tăng những thử nghiệm chụp nhũ ảnh.
Trường hợp tử vong do điều trị (tử vong do bác sĩ điều trị) đứng thứ 3 trong những nguyên nhân tử vong hàng đầu tại Mỹ trích từ thống kê riêng của các tổ chức y tế. Cái chết bởi thầy thuốc bình thường tới nỗi người ta đã gói gọn nó trong một từ ‘iatrogenic’-do thầy thuốc.
Các cô gái phải trải qua hóa và xạ trị phải đối diện với nguy cơ 35% nguy cơ mắc bệnh ung thư vú vào độ tuổi 40, 75% là điều này sẽ xảy ra cao hơn cái mức trung bình 35% kia. Bức xạ quang tuyến vú cũng sản sinh ra các loại ung thư, đặc biệt là ở vùng ngực.
“Một nghiên cứu với hơn 10.000 bệnh nhân cho thấy rõ ràng rằng chỉ định hóa trị mạnh cho chứng Hodgkin (u hạch bạch huyết) được ghi nhận trong hồ sơ bệnh án thực là trò lừa bịp. Những bệnh nhân trải qua hóa trị, có hơn 14% phát triển các bện bạch cầu và hơn 6% phát triển ung thư các cơ xương khớp gấp hiều lần những bệnh nhân không phải trải qua hóa trị liệu - Tiến sĩ-Bác Sĩ y khoa John Diamond
“chemo-brain” hóa trị gây suy giảm chức năng nhận thức của não, sử dụng loại liệu pháp hóa trị liên quan đến hệ thần kinh vĩnh viễn là một thách thức tinh thần to lớn cho bệnh nhân. Có vô số các loại thuốc mà bác sĩ có thể kê toa để bạn mua (nhằm duy trì nữa phần đời còn lại của bạn), để ‘điều trị’ và ‘quản lý’ tâm trí của bạn.
“Nếu một bệnh nhân bị u não đang được chỉ định điều trị bằng xạ trị hay hóa trị liệu pháp, chỉ có mỗi một câu hỏi duy nhất được đặt ra, “Làm cách nào mà khối u có thể hoạt động được?” Không một ai đặt câu hỏi đó với bệnh nhân. Trong quá trình đào tạo y khoa của mình, tôi đã nhớ rất rõ những bệnh nhân đang trải qua quá trình xạ trị hay hóa trị. Khối u sẽ càng ngày càng nhỏ, tình hình sức khỏe bệnh nhân sẽ càng ngày càng tệ hơn. Khi khám nghiệm tử thi các bác sĩ sẽ reo lên, ‘ Thật là thần kỳ! khối u đã biến mất! Vâng, đúng thế, nhưng làm ơn đi, đây là bệnh nhân.” - Tiến sĩ Philip Binzel
TIến sĩ Ewan Cameran, đã 2 lần đoạt giải Nobel, chiến thắng một nghiên cứu của Linus Pauling ở Scotland (mà nghiên cứu của Linus sau này đã được nhân rộng trên các nghiên cứu tại Canada và Nhật Bản), bằng so sánh giữa việc điều trị vitamin C với hóa trị liệu.
Đoán thử xem, nhóm bệnh nhân này sẽ sống dai hơn thời gian trung bình của các bệnh nhân ung thư là bao lâu? Và số bệnh nhân trong nhóm này là bao nhiêu?
Vitamin C giúp kéo dài tuổi thọ trung bình của các bệnh nhân ung thư lên gấp 6 lần, và đương nhiên cũng làm chất lượng đời sống của họ tốt hơn. Có một sự khác biệt so với thực tế là Vitamin C tăng cường hệ thống miễn dịch, thay vì làm suy yếu nó hơn như hóa trị đã làm.
“Là một nhà hóa học được đào tạo để giải thích dữ liệu, thông tin này khiến tôi khó mà chấp nhận rằng các bác sĩ đã bác bỏ bằng chứng rõ ràng rằng càng hóa trị bao nhiêu, càng hại nhiều hơn là lợi.” -- TIến sĩ Alan Nixon, cựu chủ tịch của hiệp hội hóa học Hoa Kỳ.
Hóa trị liệu cho ung thư da ( ung thư da còn được biết như “viêm da do bức xạ”) “Những người [mắc ung thư hạch bạch huyết] còn sống sót thường là 11% trên tổng các số ca tử vong, mặc dù con số này đã giảm trong những năm qua, nó vẫn còn cao gấp 3 lần dự kiến con số chẩn đoán ban đầu của họ trong vòng 45 năm trở lại đây.” - Reuters New Service
Bệnh nhân ung thư đều có nguy cơ tử vong do nhiễm trùng máu bất kỳ lúc nào, điều đó là hiển nhiên vì hóa trị liệu đã phá hủy hoàn toàn hệ thống miễn dịch của bệnh nhân, và do đó vi khuẩn đã từ đó dễ dàng xâm nhập và giết chết bệnh nhân. Thông thường thì những trường hợp như thế này lại được tính là “tử vong do nhiễm trùng máu” thay vì là tử vong do ung thư. Đó là một phương cách khác để hội đồng y tế thao túng các số liệu thống kê về sự an toàn và hiệu quả của hóa trị và xạ trị liệu pháp.
Sự biện minh tương tự cũng được áp dụng thành những ca tử vong do viêm phổi, loạn nhịp tim, và tiểu đường để thay cho nguyên nhân thực sự được gây ra bởi các tia phóng xạ và thuốc chống ung thư.
Ngành công nghiệp hóa dầu và ngành y tế công cộng đã cùng hợp tác với nhau để trở thành cơ quan ngôn luận của chính phủ, ra sức thuyết phục chúng ta rằng ánh sáng mặt trời là một loại tiền tố ung thư.
Ánh sáng mặt trời sản sinh ra vitamin D nhờ có cholesterol có trong da, nó bỏ bớt sự dư thừa cholesterol. Quan trọng hơn nữa là vitamin D (được tạo ra từ ánh sáng mặt trời) làm giàm đi 70% các bệnh ung thư, trong đó có cả ung thư da.
Người ta có tỷ lệ hấp thụ ánh nắng mặt trời cao hơn khi họ sử dụng kem chống nắng. Đôi khi các thành phần trong kem chống nắng còn tự sinh ra các đồng phân có độc tính, gây ung thư khi có xúc tác ánh sáng. Nếu không, chúng sẽ bao gồm những thành phần có khả năng tích tụ gây ung thư như Oxide Kẽm, Titan Dioxide, và nhôm hydroxide.
Các công ty hóa chất đã tạo ra vấn đề, để họ có thể kinh doanh trên chúng ta bằng giải pháp của riêng họ. Các giải pháp phòng tránh mà họ nói chỉ đơn giản là không để lộ ra thứ chất độc mà họ đang kinh doanh.Tiếng nói của họ vô cùng mạnh mẽ trên các kênh truyền thông đại chúng, cho nên họ mặc nhiên có thể đổ lỗi những bệnh tật đã gây ra cho chúng ta là do mặt trời. Chứng thiếu hụt vitamin D rất là phổ biến hiện nay, chứng minh rằng mọi người đã không nhận được đủ ánh sáng mặt trời.
Chỉ có ung thư da là trở thành vấn đề lớn vào giữa thế kỷ 20, sau khi kem chống nắng ra đời, cũng như cái cách mà ung thư vú bùng phát khi phương pháp chụp nhũ ảnh ra đời. Nuôi con bằng sữa mẹ chẳng hạn, đâu phải chỉ có mỗi chụp quang tuyến vú là cách chắn chắn nhất để phòng ngừa ung thư. Trong khi thực tế, ung thư chỉ được biết như là “căn bệnh của nữ tu”.
Điều đó ước tính rằng chỉ có 10-20% các chẩn đoán và điều trị lâm sàng là được chứng minh rằng nó có hiệu quả bằng những thử nghiệm đã được kiểm soát.
- Văn phòng của chương trình đánh giá và báo cáo về công nghệ y tế lên hội đồng thượng nghị viện Mỹ, năm 1978.
Thời gian trung bình đã dự kiến để chữa bệnh thường được kéo dài thêm 4% trên tổng số quá trình (đó là chưa tính trong vòng 5 năm trở lại đây họ đã dung những tinh đồn để gian lận các thông số chữa trị) Vì vậy, với lượng độc tố trong các “phương pháp điều trị quy chuẩn”, thì có khoảng 96% khả năng là phương pháp điều trị sẽ giết bạn, nhiều hơn là căn bệnh ung thư sẽ giết chết bạn. 13:38 - 19:24
-----Hệ thống-------   
“ Bạn sẽ không tin nổi số lượng nhân viên của FDA hay người quen của họ đến gặp tôi ngang ngửa với số bệnh nhân ở Hanover đâu! Bạn không thể nào tin nổi điều này! Không FDA thì cũng là giám đốc của AMA, ACA hay người đứng đầu các viện ung thư chính quy.” - Trình dược viên Hans Nieper, bào chế dược phẩm
“Điểm mấu chốt là các hệ thống y tế là nó được chi phối bởi các nhà tài phiệt để phục vụ cho các mục đích tài chính. Bạn chẳng có ai để phục vụ trừ khi có người bị bệnh, toàn bộ hệ thống y tế được thiết kế để làm con người càng ngày càng bệnh tật nhiều hơn.”
- Trình dược viên, tiến sĩ Guylain Lanctor, tác giả của 'The Medical Mafia: How to Get Out of It Alive and Take Back Our Health & Wealth'
Ngành dược đã được bắt đầu tẩy não (nhồi sọ) khi còn rất sớm
Loại quảng cáo được Ritalin sử dụng có tên là “hội chứng khi mẹ mệt mỏi”, trước khi A.D.D phanh phui nó là một hình thức mua bán “rẻ tiền” của Ritalin.
Ngày xưa, nhiều phim hoạt hình của trẻ em diễn tả rau củ là một hình thức làm tăng thể lực và sức mạnh siêu nhiên.
Thứ quyền năng đặc biệt này trở thành phương tiện để tự bảo vệ chính mình và mọi người, chứ bản thân nó lại chẳng phải là loại phương tiện nào.
Các nhân vật trong hoạt hình và trò chơi miễn nhiễm với các loại độc, chất nổ và tia phóng xạ. Mà những thứ như thế là vũ khí của kẻ ác, và kẻ ác tới giờ vẫn còn sử dụng những cách thức đó.
Với ngành giải trí cho các thiếu nhi thời đại này, thì hóa chất và phóng xạ cung cấp siêu năng lực. Phẩm chất của đạo đức và sức khỏe đã trở nên lỗi thời rồi.
Tốt hơn trên cả các loại hóa chất, đặc biệt có các hóa chất có hoạt tính phóng xạ. Ngành công nghiệp hạt nhân và hóa dầu hiện tại là nguồn gốc của năng lượng chống lại tự nhiên, và đột biến gene lại được xem như là một điều gì đó thật tuyệt vời, góp phần phát triển công nghệ sinh học.
Ai đã nhìn thấy mấy cái mô hình chưa? Mấy cái mô hình đó bây giờ thế nào rồi? Ngay chính lúc này? Và, đương nhiên, hãy ở đó mà chờ cho đến khi chúng trở nên cũ rích… Muốn biết thế nào là tham nhũng thì cần phải có kiến thức về Cục Quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ, những cộng sự và lịch sử tăm tối của Cục.“AI nắm giữ quá khứ sẽ kiểm soát tương lai. Ai nắm giữ hiện tại sẽ tóm gọn quá khứ” - George Orwell’s “1984”
Cục quản lý thuốc và thực phẩm (F.D.A) lúc mới bắt đầu thành lập chỉ là một cơ quan quản lý hóa chất, thời gian sau được gọi là Cục quản lý hóa chất, mãi về sau mới đổi tên thành F.D.A.
Cái tên đã được thay đổi để bưng bít các dự án hóa chất công nghiệp.
Cơ quan này cấp cho các công ty một tư cách pháp lý để đưa hóa chất vào thực phẩm, các hãng dược phẩm nào được FDA “thông qua”, những hãng này có từ bỏ đạo đức thì cũng không vi phạm pháp luật quy định cho ngành công nghiệp hóa chất được.
Nguồn gốc các hóa chất từ Cục quản lý hóa chất, năm 1909 – mà sau này trở thành FDA.
Trên đó là công việc thực sự của họ, và nó là “thông qua” và sử phạt những sản phẩm thuộc ngành công nghiệp hóa chất. và họ bưng bít một cách hợp pháp cho những hóa chất trong ngành công nghiệp này bằng cách…tuyên bố cái gì mới là “an toàn”.
Họ đều đặn chia sẻ những dữ liệu được bảo mật với các nghiệp đoàn hóa học cộng sự để làm giảm nhẹ trách nhiệm. Ví dụ, những thông tin ô nhiễm mà họ đã ém nhẹm trước công chúng. Đây là những vấn đề trong “quan hệ công chúng”
Một trường hợp công ty hóa chất được “FDA thông qua” đã may mắn thắng vụ kiện 1 tỷ dollar tại tòa án Mỹ, và đã trình một G.R.A.S (Chứng nhận an toàn chung) trong tình trạng an toàn được bảo mật. Đây là lá chắn cho các nghiệp đoàn hóa chất, và cho họ cái quyền bào chữa chính đáng.
Mô hình F.D.A hiện đại hơn được tiến hành vào năm 1913—trong cùng một năm thành lập ra quỹ Rockefeller. Tay nắm tay, FDA - Quỹ Rokefeller và Hiệp hội y tế Hoa Kỳ, cùng nhau hoạt động sát cánh.Quỹ Rockefeller được thành lập vào năm 1913, với mục đích trọng yếu là nhắm vào các hoạt động y tế và đào tạo y khoa.
Tài trợ ban đầu của Rokefeller cho trường y đạt trên 550.000.000 dollar. Chỉ trong năm 1928, Quỹ Rokefeller đã tài trợ tiền cho 18 trường y trên khắp 14 quốc gia.
Những cộng sự của Rokefeller tại FDA đã bắt đầu thúc đẩy cuộc cạnh tranh khốc liệt về các loại thuốc ức chế với ngành công nghiệp hóa chất.
“Tôi sẽ không đời nào công nhận mọi loại thuốc mới đến từ bất kỳ các nghiệp đoàn hóa chất tư nhân nào, trừ phi loại thuốc ấy đến từ một hãng dược khổng lồ với những nguồn tài chính vô hạn. - Tiến sĩ Richard J.Crout, giám đốc của chi cục quản lý thuốc của FDA (Spotlight, 18 tháng 1, 1982)
Các loại thảo dược có tác dụng ức chế là thứ mà ngành công nghiệp của họ không thể kiểm soát, và độc quyền bằng tấm bằng sáng chế “thuốc” (hóa chất). Tự nhiên chẳng bao giờ cần được cấp bằng sáng chế cả. Đó là lý do tại sao tất cả các liệu pháp thiên nhiên và không gây độc hại hiển nhiên trở thành một loại “thủ đoạn” khác của FDA, nghiệp đoàn hóa chất, và các đơn vị y tế.
Chỉ có những hóa chất trái với tự nhiên (như phi hữu cơ và chất độc ) là có thể được cấp bằng sáng chế, và những loại thuốc không chứa độc tố là một mối đe dọa trong việc kinh doanh thuốc men.
“FDA bảo vệ các tập đoàn dược phẩm lớn, và sau đó nhận được khen thưởng, và sử dụng quyền lực của một tổ chức chính phủ, họ bắt giữ những mối nguy hại lên các hãng dược lớn. Người người nghĩ rằng FDA đang bảo vệ họ. Nhưng không. FDA nào có làm thế, điều mà họ đang thực hiện trái ngược hoàn toàn so với những gì dân chúng có thể hình dung, sự trái ngược đó như là ngày với đêm vậy.” - Tiến sĩ Herbert Ley, Former Commissioner of FDA
“Vào năm 1919, việc Rockefeller trao tặng một số trường y ở Canada 5.000.000 dollar đã góp phần làm nên nền giáo dục y khoa Canada đến tận thế kỷ 20 - McGill University Press
Y học thời đó làm gì có cái thị trường sinh ra lợi lộc như bây giờ, thế nên các trường y đã phải nương nhờ vào các khoản viện trợ của Rockefeller dành cho những trường đào tạo đạt yêu cầu.
Rockefeller yêu cầu tuân thủ các quy định từ bỏ các thể loại y học truyền thống và các dược liệu tự nhiên, thay vào đó là một thế hệ mới của các dẫn xuất hóa dầu trong các sản phẩm thuốc, và thiêu rụi toàn bộ ghi nhận bởi thư viện của quá khứ. Điều gì đã xảy ra mà đã khơi mào cho nạn đốt sách ở khắp nơi, và trong một vài trường hợp, chính FDA đã thiêu hủy sách. Đó là thời điểm làm nguy hại đến các phương pháp trị liệu tự nhiên truyền thống (ngành công nghiệp không khói) của các bác sĩ.
Tất cả những ai bất đồng chính kiến đã từng dành thời gian đề thử nghiệm trên toàn phương diện của các liệu pháp thiên nhiên để chữa lành bệnh, từ nay sẽ được xem như bị quỷ ám, một dạng “lang băm” trong hệ thống đào tạo y khoa chính quy.
Dù cho đó có là những “lang băm” đoạt giải nobel y học, và kết quả thu được sâu rộng đến chừng nào. Đây là chiến lược cây gậy và củ cà rốt. Trường học đạt yêu cầu sẽ được đưa ra trước mặt củ cà rốt (tiền của Rockfeller). Các bác sĩ truyền tay nhau cái cây gậy (cảnh sát cơ động của FDA). Một số bác sĩ đã phải rục xương trong tù vì đã chữa lành bệnh nhân với loại thuốc “không được thông qua kiểm nghiệm”. Điều đó vẫn cứ xảy ra cho đến giờ…
Tại các cửa hàng mua bán thực phẩm hữu cơ (không chứa hóa chất công nghiệp)… Có các vitamin hay sữa tươi có thể thực sự tiêu diệt các tế bào ung thư. Điều đó có nghĩa là chẳng cần phải có các bác sĩ với những phương pháp chữa bệnh nào nữa. Thực dưỡng là bất hợp lý, dù bằng cách này hay cách khác vì chẳng có một phương pháp thực dưỡng nào được “thông qua” cả. Phương pháp chữa bệnh có nghĩa là vô tư- không bị ràng buộc bởi các chất hóa học: tự do hay không là do họ quyết định.
Một mối quan hệ bất chính được hình thành giữa hiệp hội y học Hoa Kỳ, FDA, và Quỹ Rockefeller. Để đảm bảo các trường y được lựa chọn tuân thủ theo, các thành viên trong ban giám đốc điều hành của quỹ Rockefeller thường xuyên nhấn mạnh và nhắc nhở lại các quy tắc. Ủy ban giáo dục chung của quỹ Rockefeller, được thành lập năm 1914, cam kết sẽ chi 500.000 dollar cho phía trường đại học, sau tăng lên 1 triệu rưỡi dollar vào ngày 1 tháng 1 năm 1916, và chịu chi lương cho các bài giảng lâm sàng của giảng viên [ chỉ có các vị có học vị chính quy mới được hưởng mức ưu đãi này]. Bằng tiền của Brady và hy vọng nhận được từ tài trợ của GEB, bệnh viện và công ty cổ phần Yale đã ký kết hợp đồng sát nhập trước kỳ hạn là vào ngày 1 tháng 7 năm 1914 của bệnh viện. - Web Site của khoa Y – đại học Yale
Y học kiểu mới có những khả năng pháp lý độc quyền, cùng song hành với độc quyền ở lĩnh vực công nghiệp hóa dầu của Rockefeller trong quá khứ. Thay vì chỉ sở hữu tất cả các nguồn dầu khí, đế chế Rockefeller hiện nay đã kiểm soát hầu hết tất cả các loại thuốc men tiêu dung. Y sở hữu vị chúa sơn lâm được gọi là “công nghiệp dược phẩm” trong thị phần ngành công nghiệp hóa chất.
Lại một lần nữa, thuốc men sẽ được kiểm tra và phân phối đến cư dân Mỹ, Các chi nhánh trên toàn thế giới rồi cũng sẽ nhận được như thế. Suốt cả cuộc đời, quý ngài John D. Rockefeller đã từ chối bãi nhiệm chức vị của mình trong ngành y không biết bao nhiêu lần. Nhưng cả đời ngài lại sử dụng những phương pháp toàn diện của y học truyền thống cho mục đích sức khỏe của chính mình. Nhiều người bạn của ngài tại FDA và AMA cũng cùng một kiểu như thế. Sau khi quyền điều hành tại các trường y bị chiếm giữ, thì các cuộc thương vong bởi bệnh bại liệt- tim- và ung thư thực sự bùng phát. “Từng có một chuyên gia u não chiễm trệ trong phòng khách của tôi bảo với tôi rằng anh ta sẽ chẳng bao giờ xạ trị nếu như chẳng may y bị u não đi nữa. Và tôi hỏi anh ta rằng, “thế chẳng phải anh vẫn chuyển người ta đến khu xạ trị sao?” anh ta điềm nhiên trả lời “ phải thế thôi, nếu muốn bị tống cổ khỏi bệnh viện thì tôi sẽ không làm điều đó” - Tiến sĩ, bác sĩ Ralph Moss.
90% bác sĩ chuyên khoa ung thư sẽ không bao giờ chỉ định chiếu xạ cho ung thư phổi. 84% sẽ không chỉ định hóa trị cho ung thư ruột kết. - Nghiên cứu của đại học Harvard được công bố tại Mỹ viện sức khỏe quốc tế : “bất kỳ bác sĩ chuyên khoa ung thư nào cũng sẵn sàng bác bỏ các liệu pháp kháng ung thư”
Big Pharma bắt đầu gửi những món quà đến trường y, và càng về sau sự nghiệp của sinh viên thì những món quà này càng lớn hơn. Các bác sĩ chuyên khoa khác chỉ đơn giản là viết toa thuốc, nhưng riêng bác sĩ chuyên khoa ung bứu [bác sĩ gây ung thư] hầu hết đều thu mua các loại thuốc trên thị trường, và kiêm luôn người bán chúng cho bệnh nhân với giá trên trời. Họ cho bệnh nhân biết rằng những người này sẽ chết nếu không có thuốc. - NBC Nightly News story, các bác sĩ khoa ung thư thu lợi nhuận từ các thuốc hóa trị liệu.
“Phần lớn bệnh nhân mắc bệnh ung thư ở đất nước này chết vì hóa trị. Liệu pháp hóa trị không loại bỏ tuyến vú cho ung thư vú, cho ung thư đại tràng hay ung thư phổi. Sự thực này đã được ghi nhận trong hơn 1 thập kỷ qua, nhưng các bác sĩ vẫn áp dụng hóa trị đối với những khối u loại này. Nữ giới bị ung thư vú có nguy cơ chết nhanh hơn là không có hóa trị.” - TIến sĩ, bác sĩ y khoa Alan Levin
“Hiệp hội ung thư Hoa Kỳ đã cố gắng hủy đi nền tảng nghiên cứu của tôi”. - Tiến sĩ Albert Szent-Gyorgyi, người nghiên cứu những đột phá của vitamin C, người chiến thắng giải Nobel Y học năm 1937
Đoán thử xem khi nào tổ chức này được thành lập và bởi ai. Tổ chức này được thành lập bởi John. D. Rockefeller Jr., trong phép màu của năm 1931, cùng thời điểm “hiến tặng” ở đại học Havard. Bạn có tin nổi một ngày đẹp trời nào đó học sẽ công bố phương pháp chữa bệnh, và vứt bỏ chiếc xe tải chất hàng đống tiền của mình không? Câu trả lời hợp lý hơn sẽ là vitamin C đã đe dọa đến sứ mệnh của họ. Niềm tin của chúng ta được dẫn dắt đến “kỳ tích” của nền y học hiện đại, là sự vượt trội hơn so với các loại thảo dược truyền thống. Thứ mà họ không đề cập đến nằm ở khoảng từ 50-70% thành phần của thuốc hóa trị được lấy từ “cỏ dại”. Bao gồm các hợp chất hữu cơ, là lý do tại sao một số loại thuốc đôi khi lại có hiệu quả. Theo ghi nhận từ ủy ban điều tra dân số Hoa Kỳ, Ung thư là sát thủ đứng thứ 2 ở nước Mỹ, nhưng hầu hết những ca tử vong là do phương pháp điều trị, chứ không phải bệnh ung thư. Các loại dược phẩm là kẻ giết người đứng thứ 4. Nước Mỹ sở hữu một hệ thống y tế nguy hiểm và đắt tiền nhất thế giới. Hệ thống này làm ra 60% tất cả các vụ phá sản. “Không chỉ có một, mà còn rất là nhiều những phương pháp chữa trị cho bệnh ung thư. Nhưng tất cả những phương pháp còn lại đều bị ACS, NCI và các trung tâm ung thư lớn đàn áp. Bởi hiện tại họ đang có quá nhiều lợi nhuận trong chuyện này”. - Tiến sĩ, bác sĩ y khoa, cha đẻ của “chế độ ăn kiêng Atkins”.
---Điều trị bệnh ung thư--- Bất chấp những nhà sáng lập Các phương pháp chữa trị được trích dẫn trong bộ phim này không chịu trách nhiệm riêng cho bất kỳ cá nhân hay tình huống đặc biệt nào, nhưng tỷ lệ cuộc sống khỏe mạnh dài hạn cùng với chất lượng và năng lực là cao hơn khi đặt kế những phương pháp này cạnh những liệu pháp điều trị hiện đại thường quy. Trong các toa thuốc chính thống được kê cho bệnh ung thư, phần lớn là các tên thuốc làm nên một cái chết vô vọng chỉ trong một câu văn.
Đầu tiên và quan trọng nhất, ung thư không phải là bùng phát các khối u. Chúng ta biết rằng cơ sở để xử lý các khối u là như nhau, nhưng nó sẽ làm lãng phí thời gian và chẳng đi đến đâu cả. Cuộc gỡ bác sĩ Otto Warburg , một trong những nhân vật qua trọng nhất, khi ông còn sống.
Hồi ức về bác sĩ Otto Warburg
Vào năm 1931, bác sĩ Otto Warburg đã được trao giải Nobel về y học. Kể từ đó trở đi, những nghiên cứu của ông đã bị các nhà sáng lập y tế chặn đứng đến dư luận rất thành công, để đảm bảo rằng chỉ có ông hay những nhà điều chế thuốc từng tiếp cận với chúng biết đến.
Khám phá của Warburg là một trong những thành tựu lớn nhất của nhân loại, nó chẳng như những chủ đề được thông báo đến các bạn. Các nhà sáng lập thậm chí còn chẳng đề cập nó ở các trường y, ngoại trừ trong mấy lời mỉa mai và hời hợt để làm kiểng.
Tiến sĩ Warburg khám phá ra rằng các tế bào ung thư chỉ phát triển mạnh trong môi trường thiếu vắng oxy, trong khi tế bào bình thường nào mà chẳng cần oxy. Ông phát hiện rằng tồn tại một trường hợp mà các tế bào ung thư bị nhiễm độc có tiếp xúc với oxy. Ông nhận ra rằng các tế bào ung thư bị đột biến không nhận năng lượng từ hô hấp, nhưng thay vào đó là năng lượng được rút ra từ quá trình lên men lượng đường trong máu.
Hơn nữa, Warburg còn nhận thấy rằng cơ thể càng có nồng độ pH thấp (môi trường acid) thì nguy cơ ung thư càng cao, vì cơ thể có nồng độ pH thấp đồng nghĩa là phải tăng cường hệ miễn dịch cho hoạt động hấp thụ oxy (*chú thích : tức nồng độ oxy trong máu sẽ giảm khi độ pH giảm do quá trình hô hấp hiếu khí của chu trình Krebs).
Những ai có nồng độ pH cao (tốt nhất là hơn 7.4) không bao giờ mắc bệnh ung thư, và nồng độ oxy trong máu của họ lúc nào cũng cao.
Tất cả những căn bệnh ung thư bất chấp là nó thuộc hạng mục phân loại nào, thì cũng nhanh chóng bị tiêu diệt ở bất kì cơ thể nào có pH vượt quá 8.5. Phần lớn các tác nhân gây bệnh khác cũng bị tiêu diệt theo.
Bệnh nhân ung thư thường xuyên có độ pH từ 4-5, và chỉ đo được ½ lượng oxy hít vào trong máu của họ. Ung thư thì không tương thích với một môi trường pH lành mạnh là trong máu chứa đầy đủ lượng oxy. Một ví dụ khác là trường hợp ung thư ở tim hầu như không thể tồn tại, bởi vì trong lượng máu chảy từ phổi vào tim có nồng độ pH và oxy là cao nhất trong toàn bộ cơ thể.
Người khỏe mạnh có nồng độ oxy bão hòa trong máu từ 98-100, được đo bằng thiết bị đo nồng độ oxy trong máu, trong khi mức đo được hiển thị của bệnh nhân ung thư thường xuyên trong khoảng 60.
Oxy trong cơ thể của bệnh nhân ung thư được thay thế bằng các chất thải, chẳng hạn như carbon dioxide, làm tăng thêm hoạt động của các độc tố và giàm thiểu oxy, điều đó khiến cho đến lượt của môi trường acid làm nên một loạt biểu hiện bệnh khác.
“Trong năm 1964, cứ 214 người thì chỉ có 1 người mắc bệnh ung thư. Ngày nay, thì cứ 3 nữ là có 1 người bị và cứ 2 nam là có 1 người bị. Yếu tố quyết định giữa sức khỏe và bệnh tật là độ pH. Điều này chẳng phải là không được phổ biết khi mà trung bình các cuộc kiểm tra của người Mỹ nằm ở khoảng pH 4.0 và pH 5.0.” - Keiichi Morishita, tác giả của “sự thật bị ẩn giấu của bệnh ung thư”
Dựa trên những phát hiện này, cơ sở lý thuyết của bác sĩ Warburg là bản chất của bệnh ung thư là một loại cơ chế sinh tồn của cơ thể.
Khi nồng độ oxy giảm đến mức thấp (chèn ép nội tạng), các tế bào phải được chuyển hóa thành dạng tế bào khác để có thể sinh tồn được trong quá trình lên men, để ngăn chặn hoại tử lan ra toàn bộ các khu vực khác của cơ thể.
Nói cách khác, nếu không có ung thư thì mọi người sẽ bị bệnh nặng hơn và sớm từ giã cõi đời này hơn rồi, nó chỉ là một cơ chế bảo vệ tự nhiên.
Điều này cũng được khám phá, và xác nhận bởi trên 3 trường phái nghiên cứu tổng quát trên một cơ thể có chỉ số pH mang xu hướng nghiêng về phía môi trường acid nhiều hơn (gây ra bệnh ung thư), bằng chế độ ăn nghèo dinh dưỡng, nhiễm độc kim loại nặng, dược phẩm, cảm xúc căng thẳng, mất nước, bệnh tật, thành phần muối biển suy giảm, thiếu hụt khoáng chất, dầu ăn tổng hợp, chất béo tổng hợp, chế độ ăn thiếu chất béo, đường tinh luyện và carbohydrate tinh luyện.
Nghiên cứu trên cho thấy rằng, chỉ ngành công nghiệp ung thư sở hữu riêng các thống kê y học- chứng minh rằng hóa trị liệu cũng như xạ trị kéo dài mãi bệnh ung thư. Trong đó, cắt bỏ khối u là phương pháp điều trị nguy hiểm nhất trong tất cả. Chất độc, phóng xạ và nhiễm toan là bộ ba xấu xa của căn bệnh ung thư. Điều này đã được chứng minh từ năm 1931. Đây là lý do tại sao liệu pháp “phòng ngừa” được chỉ định như là hoạt chất phóng xạ chụp quang tuyến vú thực sự gây ra bệnh ung thư.
Đó cũng là lý do vì sao càng nhiều chỉ định “phát hiện sớm”, càng nhiều những căn bệnh ung thư được “phát hiện”. Tỷ lệ các ca bệnh ung thư (và các ca tử vong) ở phụ nữ hoàn toàn không chụp quang tuyến vú là thấp hơn đáng kể so với được chỉ định. Một số liệu pháp có tỷ lệ thay thế từ 80% đến 90% cho việc điều trị suốt đời, bằng việc sử dụng những phương pháp an toàn và không tốn kém phù hợp với cơ chế hoạt động của cơ thể, thay vì phải chống lại căn bệnh.
Không một yếu tố nào trong số những phương pháp này đòi hỏi phải làm nhiễm độc các bệnh nhân, hay chứa hoạt tính phóng xạ.
Không một phương pháp nào trong số những phương pháp này được cấp bằng sáng chế, được quy định hay được các nghiệp đoàn hóa chất độc quyền.
Tất cả các phương pháp chữa trị ung thư hiệu quả là bất hợp pháp đối với bất kỳ loại quy định nào về quy định khám chữa bệnh tại Hoa Kỳ. Kinh doanh các sản phẩm với mục đích chữa bệnh đại loại như trên là bất hợp pháp, vì không có loại phương pháp nào như thế được “thông qua”. Sẽ chẳng đời nào họ làm thế. Thậm chí nhà sản xuất nào trích dẫn về nó cũng bị xem là bất hợp pháp, dù cho bản thân nhà sản xuất đó được điều hành bởi các nhà sáng lập ngành y chính thống đi chăng nữa. Vì vậy, thông tin, tất cả các mục đích và kiến thức chữa bệnh ung thư thực sự, bị cấm trong thực tế.
Liệu pháp thành công nhất trong điều trị kháng ung thư bắt đầu với chế độ ăn uống, và dinh dưỡng; bởi quy cho cùng, chúng ta thực sự là những gì chúng ta ăn vào. Từ đó, tiết lộ ra những phương pháp khác nhau, nhưng có một nền tảng chung cho những ai nuốt phải rác thải là chẳng còn hy vọng hồi phục sau một cơn chấn động sức khỏe. Tổng quan mà nói thì chế độ ăn uống là quan trọng nhất để xác định nồng độ pH của cơ thể; và kế đó là độ thậm hụt oxy. Nhiễm toan càng được phóng đại hơn nữa do thiếu hụt các khoáng chất quan trọng.
Phần lớn các phương pháp chữa trị ung thư (không dính liếu gì đến những phương pháp chữa trị các triệu chứng của bệnh ung thư) bằng cách nào đó mà nó liên quan đến cơ chế tự điều chỉnh độ pH của cơ thể thành môi trường kiềm lý tưởng. Môi trường kiềm làm giàu nồng độ oxy trong máu người. Máu bão hòa oxy thường gây bất lợi trên các tế bào ung thư bị đột biến (quá trình lên men). Khí oxy hiển hiên vô hại đối với các tế bào khỏe mạnh được nuôi dưỡng bằng các hoạt chất chống oxy hóa. Nói lên điều này cũng chỉ để quay trở lại chế độ ăn uống. - Chữa lành bệnh ung thư: Vitamin B17 (laetrile)
“Sau khi trình bày một bài thuyết trình về hiệu quả của vitamin B17 và bệnh ung thư, kính chắn gió xe tôi đã bị bắn rơi thẳng xuống đường về San Francisco. Tối hôm sau, cửa kính sau đuôi xe của tôi bị bắn thủng (cách tiếng nơi tiếng sung đầu tiên nổ ra 300 dặm). Cách sát bảo rằng, ‘có thể ai đó đang cố gắng nói với ông điều gì ‘ ”
- Ernst T. Krebs, người khám phá ra vitamin B17
Vào năm 2007, khổ hạnh nhân (không phải là loại hạnh nhân ta thường dùng) đã trở thành một bài thuốc tự nhiên thay thế cho vitamin B17 mà các nhà sáng lập các tổ chức y tế tổng hợp. Vào năm 2002, các cửa hàng thực phẩm vì sức khỏe đã phải ngừng bán vitamin B17 dưới hình quả hồ đào, do FDA đã thực hiện những biện pháp cưỡng chế. FDA công khai cấm hạt mơ, và các chiết xuất tự nhiên chứa vitamin B17, bởi vì nó đã thành công trong việc chữa lành bệnh ung thư, được biết qua danh mục “thuốc không được thông qua”. Suốt năm 2002, chính phủ Anh đã sớm thi hành theo, và phương cách thực hiện y chang nhau. Cư dân ở cả hai quốc gia đã bị bắt và buộc tội chỉ vì kinh doanh các quả hồ đào hữu cơ chứa vitamin B17 (laetrile)
“…một báo cáo bác bỏ laetrile (Vitamin B17) được trung ương phát hành vào cuối tháng sáu đã bỏ qua những thí nghiệm cho thấy thảo mộc có thể mang lại hiệu quả trong quá trình điều trị ung thư…” “…có gì đó mờ ám ở đây.”
- New York Times, 24 tháng 7 năm 1997 Sau này, khổ hạnh nhân đã được phát hiện là một nguồn chứa hàm lượng cao loại vitamin này. Vitamin B17 [laetrile] trở nên quý hiếm trong thời đại thực phẩm thiếu dưỡng chất như ngày nay.
Do hiệu quả của nó, các nhà quản lý sẽ không chính thức công nhận vitamin B17 như các loại vitamin hay là vi chất dinh dưỡng khác.
Lý do cho sự bùng nổ sự phổ biến của vitamin B17 và từ đó dẫn đến khổ hạnh nhân, là do trong thực tế vitamin B17 có khả năng bất hoạt các thuộc tính của các tế bào ung thư một cách kỳ diệu và gay cấn như trên màn bạc. Trong khi đó các liệu pháp thay thế thuốc đã đem lại hiệu quả điều trị ung thư và không chất độc hại kể từ năm 1930, loại vitamin mới này thực sự có vẻ ngoài trông giống như một viên đạn ma thuật.Khắp nơi xuất hiện những bài báo cáo tế bào ung thư bị bất hoạt nhờ bệnh nhân đều đặn sử dụng khổ hạnh nhân hằng ngày. Chẳng bao lâu trên thị trường xuất hiện những viên nang chiết xuất từ khổ hạnh nhân, khiến việc bệnh nhân sử dụng thảo dược không chứa độc tố giá rẻ hàng ngày ảnh hưởng đã ảnh hưởng không tốt cho ngành công nghiệp dược phẩm. Làm hao hụt của họ hàng tram tỷ dollar.
Ẩn chứa bên trong viên nang vitamin B17 là một lượng nhỏ cyanide trung hòa được giữ lại bằng chính thành phần chính của nó – vitamin B17
Khi vitamin B17 tiếp xúc với các tế bào ung thư, cyanide kéo giảm “tải trọng (kích thước và trọng lượng)” của các tế bào này: đặc biệt là khả năng nhắm xác đích các tế bào của chúng.
Cũng không biết chính xác lý do vì sao loại phản ứng này tồn tại, hay cơ chế nào khiến kích thước và trọng lượng của tế bào ung thư có thể gây chết người.
Vào tháng 9 năm 2007, trong suốt một thời đại hoàng kim của phương pháp chữa trị bằng vitamin B17, FDA đã điều chế hạnh nhân tươi có chứa 2 chủng loại vi khuẩn salmonella-đã từng bùng phát trong 5 năm về trước, và tất cả hạnh nhân các loại cần phải được tiệt trùng, vì lý do đó mà đột nhiên hạnh nhân trở thành một mối đe dọa thảm khốc đến sức khỏe của quốc gia.
Việc tiệt trùng bắt buộc chỉ làm biến đổi hoạt tính của hạnh nhân. Khiến cho hoạt tính của vitamin B17 trong hạnh nhân đắng bị vô hiệu hóa, đó chỉ là kế hoạch đã được FDA sắp xếp. Khổ hạnh nhân là nguồn giàu vitamin B17 nhất, đã chính thức bị cầm lưu hành ở Mỹ vào năm 1995.
Các bác sĩ nào có chỉ định lartrile cho bệnh nhân đều nhận được yêu cầu bị giám sát và bản thân phải viết báo cáo từ FDA.
Nó phải được liệt vào danh sách hàng cấm- để bảo vệ công dân Mỹ.
Nếu bạn thấy bất kỳ loại hạnh nhân nào được dán nhãn “tươi”, sau đó bạn có thể chắc chắn rằng hãng sản xuất đang bịp bợm, và hành động phi đạo đức.
Do sự can thiệp của FDA, hầu hết các loại hạnh nhân ở Mỹ đều được tiệt trùng bằng propylene oxide. Propylen oxide được biết đến như là một loại hoạt chất gây ung thư. Nó nẳm trong đề mục thứ 65 trong danh sách các hóa chất cùng một lúc gây bệnh ung thư và tác hại đến khả năng sinh sản tại California. Trong ảnh: Nhà máy BASF sản xuất propylene oxide.
Phần lớn thành phần mang giá trị dinh dưỡng của hạnh nhân được bán ở Mỹ đã bị vô hiệu hóa, nhưng bên cạnh đó nó còn mang theo thành phần hóa học mang độc tính gây ung thư với khả năng khử trùng tốt. Chất khử trùng này có mặt trong hầu hết các loại hạnh nhân mạo danh được dán nhãn “hữu cơ” và “tươi sống”.
Theo ghi nhận của FDA, khổ hạnh nhân là “độc”, nhưng bằng cách nào đó mà nó đã trở nên nguy hiểm chỉ sau khi công bố những phát hiện vitamin B17 trong khổ hạnh nhân ức chế tăng sản tế bào ung thư.
Loài người đã ăn khổ hạnh nhân trước đó 9000 năm lịch sử mà chẳng có một ca tử vong nào được kiểm chứng, hay bất kỳ những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.
FDA công bố rộng rãi một trường hợp tử vong do khổ hạnh nhân, nhưng khi điều tra thì vỡ lẽ ra là đứa trẻ tử vong bởi hóa trị liệu của bệnh viện. Cả hai bản báo cáo khám nghiệm tử thi và thông cáo trên báo chí đã tự ý bỏ qua các mốc thời gian của liệu pháp hóa trị.
Thông báo khẩn. Khi sử dụng vitamin B17 (laetrile) hoặc bất kỳ những phương pháp điều trị thay thế khác để cứu con mình, bạn cần phải sáng suốt về vấn đề này trong cuộc thảo luận khám định kỳ, bởi vì bác sĩ có thể nói cho con bạn biết những loại dịch vụ bảo vệ nó trong khi bạn thì “bỏ bê các vấn đề y tế” của chúng. Bạn đã được thông báo.
- Chữa lành bệnh ung thư: Phương thức Budwig “Tôi có giải đáp về bệnh ung thư đi chẳng nữa thì các bác sĩ người Mỹ sẽ chẳng bao giờ nghe chúng. Họ đến đây để quan sát phương pháp của tôi và bị gây ấn tượng. Kế đó là họ muốn tôi thực hiện một thỏa thuận đặc biệt để họ có thể mang phương pháp đó về nhà và kiếm thật nhiều tiền. Tôi đã không làm thế, và tôi đã bị tẩy chay ở mọi quốc gia.”
- Tiến sĩ, bác sĩ y khoa Johanna Budwig. Cuộc gặp gỡ với tiến sĩ- bác sĩ y khoa
Cô rời bỏ thế giới này vào năm 2003, ở cái độ tuổi 95 chín muồi, nhưng dung mạo của cô trông như mới vừa 70.
Cô được để cử 7 lần cho giải Nobel Y học.
Budwig đã chữa lành bệnh ung thư: không phải là điều trị thông thường. Nhưng đã chữa lành cho những bệnh nhân mắc bệnh nan y; thậm chí ngay cả những bệnh nhân này cũng đã tuyên bố rằng họ đầu hàng số phận, rằng nó “không thể chữa được”, và chỉ còn có nước ngồi chờ chết. Đây không phải là chuyện hiếm gặp ở những người mắc bệnh ung thư.
Cô chữa lành mọi ca ung thư được thải đến chỗ cô, và cô đã nhanh chóng tiến hành chữa trị, đơn giản, rẻ tiền, và vĩnh viễn không sử dụng những thành phần gây độc mà không có bất kỳ tác dụng phụ nào.
Y học của cô thực sự đã làm cho bệnh nhân của mình mạnh mẽ hơn, và tỉ lệ chữa lành bệnh là hơn 90%, bao gồm cả ca ung thư “thời kỳ cuối” tồi tệ nhất. Bệnh nhân của cô ấy trải nghiệm mà không bị tác dụng phụ.
Khía cạnh đáng kinh ngạc nhất vẫn còn bị đàn áp. Vũ khí áp chế căn bệnh ung thư hạng nặng của tiến sĩ Budwig là phó-mát tươi (quark chesse) và dầu hạt lanh (omega 3) rất phổ biến.
Những thứ tưởng chừng như tầm thường này kết hợp với chế độ ăn Budwig kéo oxy vào tận sâu các mô, trong khi đồng thời bảo vệ khỏi bị thiệt hại bởi quá trình oxy hóa.
Bất kỳ thực phẩm nào chứa nhiều thành phần lưu huỳnh có thể được dùng thay thế bằng phó-mát tươi (quark chesse), cũng như sữa chua (không đường) lên men tự nhiên, phó- mát tươi lên men bằng sữa chua (cottage chesse).
Công thức đơn giảm đáng ngạc nhiên của Budwig là omega-3 công với sự kết hợp giữa lưu huỳnh có trong protein với oxy, đã được sử dụng như là một trong những phương cách đơn giản nhất trong chế độ ăn kháng ung thư. Phương thức mà chế độ ăn uống của cô nhấn mạnh là chất béo có giá trị dinh dưỡng.
Tiến sĩ Johanna Budwig cũng nhận ra như tiến sĩ Otto Warburg, bí mật chi phối căn bệnh ung thư là hơi thở đã được Thượng Đế ban- khí oxy.
Xét về mặt kỹ thuật thì nó không hề đơn giản, nhưng bản chất của nó gần như rất đơn giản.
Thủ pháp thực sự là bơm ngược khí oxy sâu vào trong các mô, và để cho các tế bào được tái tạo lại bằng cách cho nó ‘ăn’ thêm một lần nữa. Tiến sĩ Budwig đã tìm ra một cách thông minh, đơn giản và nhanh chóng hơn những phương pháp khác để cải thiện quá trình chuyển hóa oxy hóa ở bệnh nhân của cô ấy.
Tiến sĩ Budwig phát hiện ra rằng ngay cả chế độ ăn được gọi là khỏe mạnh nhất (không chất béo) cũng là một phần rất lớn trong các vấn đề gây bệnh ung thư.
Phương pháp của cô ấy giúp loại bỏ sự tổn hại của chất béo tổng hợp và các thực phẩm trong chế độ ăn làm nghèo nàn hàm lượng oxy của tế bào (các bác sĩ cũng thường khuyến cáo), và thay thế bằng các thực phẩm chữa lành bệnh tự nhiên, và bảo vệ sự sống bằng các acid béo thiết yếu.
Đi cùng chế độ ăn uống, phương thức Budwig cũng nhấn mãnh những lợi ích từaánh sáng mặt trời, nguồn vitamin D3 kháng ung thư tự nhiên, giảm thiểu căng thẳng, và điều hòa bằng cảm xúc.
“Nếu không có các acid béo, các enzyme cho hoạt động hô hấp bị bất hoạt và người ta sẽ chết ngạt, ngay cả khi chỗ của họ ở có một bầu không khí giàu oxy đi chăng nữa. Một thiếu sót trong các bài báo cáo được đánh giá cao là các acid béo không bão hòa làm suy yếu nhiều chức năng cơ quan quan trọng. Trước hết, nó làm giảm hàm lượng oxy cố định của một người. Chúng ta không thể tồn tại mà không có các acid béo, cũng như chúng ta không thể sống sót mà không có thực phẩm. Điều này đã được minh chứng từ rất lâu."
- Tiến sĩ Johanna Budwig Phương thức Budwig: Ghi chú sau cùng
Phương thức Budwig bao gồm 2 giai đoạn. Một trong 2 giai đoạn này là phương thuốc tự nhiên được hòa trộn giữa những protein có thành phần giàu lưu huỳnh và dầu hạt lanh cung cấp omega 3.
Dầu cá (chứa omega 3) sẽ không được khuyên dung để tránh những rủi ro bị ô nhiễm, và cơ thể cũng sẽ tổng hợp đủ lượng omega 3 cần thiết từ dầu hạt lanh để cân bằng chính xác đương lượng từ omega 3 đến omega 6.
Giai đoạn còn lại của phương thức Budwig là chế độ ăn uống đặc biệt nhấn mạnh các thự phẩm lành mạnh và các chất béo lành mạnh. Kết quả ấn tượng xảy ra trong vòng 90 ngày. Bệnh nhân được khuyện tiếp tục với chế độ ăn cho 6 tháng, bất kể có những biểu hiện thiếu hụt đi chăng nữa.
Sức mạnh của ánh sáng mặt trời (vitamin D3) trong cuộc chiến kháng ung thư chẳng hề được phóng đại tí nào. 
 –Chữa lành ung thư: phương pháp Hoxsey—
Có một số quy tắc không hế thay đổi. Như việc thuế má và cái chết là thân hữu của chính phủ vậy.
Phương pháp Hoxsey kháng ung thư là liệu pháp thiên nhiên được bác sĩ Harry Hoxsey tạo ra.
Nó cùng nhữ tất cả các phương pháp điều trị thay thế khác, được sử dụng cho tất cả các bệnh nhân dù cho họ có khả năng chi trả hay không.
Trong lịch sử của “thủ đoạn”, ông được cho là bác sĩ bị bắt giữ nhiều hơn bình thường.
Các thành viên trong bồi thẩm đoàn đã tuyên bố tách biệt thử nghiệm của ông khỏi những bằng chứng y tế bị gian lận. dựa trên bằng chứng áp đảo rằng nền tảng của cả hai phương pháp chữa trị đều an toàn và có hiệu quả cao trong điều trị ung thư.
Không có lấy một ai trong số hơn 10.000 bệnh nhân của Hoxsey sẵn sàng đứng ra theo yêu cầu làm chứng chống lại ông cả.
Một người thụ lý và thi hành án của thành phố Dallas, người đã từng thi hành bắt giữ Hoxsey hơm cả tram lần, cuối cùng cũng phải đến chỗ của Hoxsey để xin chữa trị cho anh trai của mình.
Người thu lý và thi hành án không bào giờ làm phiền Hoxsey lần nào nữa.
AMA từ chối kiểm tra quá trình chữa bệnh của Hoxsey, hay là đánh giá độ an toàn và hiệu quả của nó, bởi vì họ e rằng làm thế chẳng khác nào “hợp pháp hóa” công việc của Hoxsey.
Khoa học thực thụ thì không ngại việc điều tra
AMA chọn lựa mua lại công thức của Hoxsey hơn. Hoxsey đã ra điều kiện là không bao giờ được từ chối bệnh nhân nào, bất kể là họ có khả năng chi trả hay không. AMA đã từ chối điều khoản đó. Sau này, họ bắt đầu những chiến dịch công kích Hoxsey bằng nhiều thủ đoạn trên truyền thông. Thậm chí cón cố gắng mưu sát ông ấy.
Cuối cùng, việc chữa trị bằng phương pháp Hoxsey đã bị cấm ở Mỹ. Những học trò của Hoxsey đã chuyển đến Mexico vào năm 1963 để không phải bị liên lụy.
Vô số người Mỹ mắc bệnh ung thư vào thời kỳ cuối phải thực hiện một chuyến lữ hành đến biên giới Mexico hang ngày để có quyền tự do sức khỏe và trị liệu Hoxsey.
Tỷ lệ trung bình mà Hoxsey chữa khỏi vào khoảng 80%, nhưng hiển nhiên các trường y không đề cập đến trong giảng dạy chính quy vì nó đã bị FDA loại bỏ. 
 -Phương pháp Hoxsey: ghi chú sau cùng
Phương pháp Hoxsey được sử dụng cho những hoạt động cai nghiện, và xây dựng lại hệ thống miễn dịch giống như việc nạp lại đầy đủ năng lượng. Phương pháp đã được kết hợp với một chế độ ăn uống đặc biệt.
Trớ trêu thay, phương pháp Hoxsey lại không có tác dụng với chính Hoxsey, cho nên cuối cùng ông phải quay trở về liệu pháp y học chính thống cho căn bệnh ung thư của mình. Ông đã chết trong vòng 7 năm. Ông tử vong vì nhiễm độc gan do liệu pháp hóa trị, nhưng mỉa mai thay, cái chết cuối đời ông được chẩn đoán đã đến từ “ung thư”.
Công thức được Hoxsey sử dụng:
Kali Iodid – 150g. Cam thảo, gỗ trăn, cây hắc mai, cỏ ba lá đỏ – 20mg. Rễ cây ngưu bang, rễ sồi, hoàng liên gai và thương lục – 10mg. Cascara và tần bì gai – 5mg.
Những loại thực phẩm cần kiêng: cà chua, dấm, thịt lợn, rượu, muối bột, đường tinh luyện và bột mì trắng 
Chữa lành bệnh ung thư: Vitamin C—
Trong những ngày đầu chỉnh lý những phương pháp điều trị, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã dẫn dầu trong một chiến dịch chống đối Vitamin C dài hơi. Những chỉnh lý bị chống đối là những chỉnh lý cho rằng vitamin C tăng cường hệ miễn dịch và dẫn đến rất ít bệnh lý.
Chiến dịch bôi nhọ và chống chỉnh lý trị liệu bằng các vitamin đã được hưởng ứng bởi AMA.
Bằng những quy định của FDA, vitamin C vẫn “không được thông qua” (bị cấm) sử dụng cho bệnh nhân ung thư, cho đến khi nào nó có “ những mối quan tâm về an toàn”.
Albert Szent-Gyorgyi đã khám phá ra Vitamin C và chiến thắng giải Nobel vào năm 1937.
Và sau đó ông cho biết rằng Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã từng nhiều lần nỗ lực đóng cửa viện nghiên cứu của ông.
Nhà nghiên cứu hóa sinh Linus Pauling từng 2 lần chiến thắng giải Nobel, là người đi tiên phong trong việc nghiên cứu mối liên hệ giữa Vitamin C và bệnh ung thư.
Linus Pauling khuyến cáo bệnh nhân ung thư thời kỳ cuối sử dụng 10 gram Vitamin C mỗi ngày, con số đó thấp hơn con số mà FDA ‘khuyến cáo bổ sung hàng ngày’ (RDA-Recommended Daily Allowance) 220 lần.
Tiến sĩ Ewan Cameron (bên trái), Cô Eva Helen Pauling (chính giữa), Linus Pauling (bên phải)
Linus Pauling đã từng làm việc với bác sĩ người Scotland, tiến sĩ Ewan Cameron, người sẽ luôn sẵn sang kiểm tra lý thuyết của ông dựa trên tiền đề là nếu vitamin C đã không chữa trị tốt, thì ít nhất là không gây hại.
Từ nằm 1971 đến 1979, tiến sĩ Cameron đã thực hiện điều trị cho 750 bệnh nhân. Hầu hết các bệnh nhân mắc “bệnh nan y” đều bị y học chính thống gạt sang một bên.
Họ ghi nhận rằng tất cả các bệnh nhân đã sống lâu hơn so với các dự đoán, cơn đau được làm dịu bớt, và một số còn hoàn toàn phục hồi chỉ bằng trị liệu với vitamin C. Một nghiên cứu khác tại một bệnh viện duy nhất, khám phá ra rằng những bệnh nhân được điều trị với acid ascorbic (vitamin C) có tuổi thọ trung bình tăng gấp 4 lần, trong khi đó phương pháp điều trị chính thống cũng ghi nhận cùng một kết quả như thế.
Các nghiên cứu của Pailing và Cameron được đăng trên các tạp chí y khoa ngay lập tức bị kiểm duyệt; cho nên hai người đã viết quyển sách ‘Ung thư và vitamin C’.
Các cộng sự truyền thông đại chúng đã dung quyền lực của mình để chặn đứng việc cho xuất bản những khám phá về dinh dưỡng và cách thức bổ sung. Những khám phá này ảnh hưởng đế quá trình chăm sóc bệnh và triệu chứng trong công tác quản lý công nghiệp.
Lấy một ví dụ, những hành động quen thuộc của phòng khám Mayo…
Sau tất cả mọi chuyện, chúng ta đều biết làm cách nào mà Vitamin C trở nên nguy hiểm.
–Vitamin C trị liệu pháp: Ghi chú sau cùng
Những nhà Vitamin C tiên phong, như Linus Pauling, đã làm thuyên giảm bệnh ung thư của mình trong suốt 20 năm chỉ bằng vitamin C.
Trớ trêu thay, Khi bắt đầu sử dụng xạ trị chính thống vào trước năm ông 90 tuổi. Nó đã giết ông vào năm 1994, ở cái tuổi 93.
–chữa lành bệnh ung thư: “Trà” Essiac
Rene Caisse là một y tá người Canada đã khám phá ra một công thức thảo dược vào năm 1992, mà dường như nó chứa hoạt tính kháng ung thư rất mạnh mẽ.
Công thức cô đưa ra là một phương thuốc cổ đại từ những người da đỏ bản địa, họ là những cư dân trao cho cô phương thức này hoàn toàn miễn phí. Cô đã đặt tên cho phương thuốc là Essiec (es-ee-ak), là tên của cô ấy được viết ngược lại.
“Trà” thảo mộc Essiac được bào chế từ rễ Goro, chút chít Rumex acetosa, Bột vỏ cây hồng du (Ulmus rubra), và đại hoàng Thổ Nhĩ Kỳ.
Cuốc chiến cới các nhà sáng lập y tế ngay lập tức bắt đầu diễn ra tại phòng khám mà y tá Caisee mở.
Bộ Y tế và phúc lợi quốc gia tại Ottawa đã cử người bắt giữ cô vì hành nghề mà không có giấy phép, nhưng trong trường hợp này các bác sĩ cũng từ chối hợp tác để bắt giữ cô.
Uy tính mà các bác sĩ có được cũng là nhờ việc cô làm mang lại (gồm có tiến sĩ – bác sĩ y khoa Charles Brusch của đại học Cambrige, Massachusetts) cũng như cách mà cô mang lại đam mê cho công việc của mình.
Những người tham gia vào các nỗ lực nhằm bắt giữ Rene Caisse đã cho bố trí một nghiên cứu thử nghiệm Essiac trên chuột, để công khai hạ thấp uy tín công việc của cô ấy.
Những con chuột được điều trị bằng Essiac sống lâu hơn với liệu pháp Essiac hơn hẳn bất kỳ nghiên cứu điều trị nào của học trước đây.
Năm 1938, Rene Caisse đã đi trước cơ quan lập pháp y tế Canada, nằm mục đích nhận được quyền hợp pháp cho Essiac (được thông qua). Cô đã để bị vuột mất 3 phiều, sau khi phần lớn trình bày của cô đã bị tùy tiện bác bỏ.
Các nhà sang lập y tế Canada tuyên bố rằng tất cả các ca bệnh được chữa lành đã bị chẩn đoán sai, đó chỉ là những sự cố trùng hợp ngẫu nhiên.
Sau khi mắc chứng suy nhược thần kinh, Caisse không thể tiếp tục để mình bị ray rứt vì những cây thảo dược của mình, và đã giúp mọi người tại tầng hầm của riêng mình với rủi ro bị bắt có thể ập đến bất cứ lúc nào.
Cùng lúc đó, những bệnh nhân người Canada đã đâm đơn kiện các nhà sang lập y tế, đòi hỏi nhân quyền được điều trị phương pháp mà họ đã lựa chọn cho đến khi cô qua đời ở tuổi 90 vào năm 1978.
–“Trà” Essiac: Ghi chú sau cùng–
“Trà” Essiac không hẳn là loại trà thường thấy. Đây là một hỗn hợp thảo mộc đã được sấy, phơi khô và đun trong nước sôi. Sau khi đun sôi, hỗn hợp công thức cần được để yên ít nhất 12 tiếng đồng hồ, mà không phải gạn hay lọc bỏ bất kỳ cái gì trong thành phần. Sau đó, hỗn hợp được lọc và làm ấm để dùng ngay.
Tránh sử dụng nhựa hay là nhôm để chứa đựng hỗn hợp công thức này. Nếu nó nổi váng màu xanh lá, hãy đem bỏ hỗn hợp này đi. Tiếp xúc với ánh sáng mặt trời làm suy yếu công năng chữa bệnh của nó. Không làm lạnh hỗn hợp.
Liệu pháp Essiac không có chế độ ăn uống “chính thức”, nhưng nhà sản xuất khuyến cáo sử dụng chế độ ăn uống của Budwig. Chế độ ăn Budwiq được kéo dài xuyên suốt bộ phim này, nhưng bạn có thể tìm them thông tin tại HealthWyze.orrg. Các phương thức Budwig và Essiac an toàn khi sử dụng chung với nhau, và tốt hơn là nên như thế.
–Chữa lành bệnh ung thư: liệu pháp Gerson–
Tiến sĩ- bác sĩ Y khoa, được sinh ra tại Wongrowitz, Đức, vào năm 1881. Ông đã phát triển một chế độ ăn uống có thể ngừa đau đầu.
Chế độ ăn uống này vô tình đã chữa khỏi một trong những bệnh nhân của ông đang bị lao màng phổi. Công tiếp tục nghiên cứu dinh dưỡng trong vai trò là một liệu pháp y tế, và ông đã chữa lành cho nhiều bệnh nhân lao màng phổi bằng cách chỉ sử dụng một loại thực phẩm duy nhất.
Một trong những thử nghiệm tại bệnh viện đại học Munich, 446 trong số 450 bệnh nhân bị lao màng phổi (tức chiếm 99,1%) được điều trị bằng phương pháp Gerson đã hồi phục hoàn toàn. Ông ấy nhanh chóng cùng với người bạn của mình là Bác sĩ Albert Schweitzer chiến thắng giải Nobel, bằng việc chữa lành bệnh lao phổi cho vợ của Albert. Tất cả những liệu pháp điều trị chính thống đa bị đánh bại.
Tiến sĩ Gerson tị nạn từ Đức sang Mỹ vào năm 1936, khi Đức Quốc Xã bắt đầu phát lệnh bắt giữ người Do Thái.
Vào năm 1938, Gerson đã được cấp giấy phép hành nghề tại Nữu Ước.
Ông đã chữa lành hang tram ca bệnh ung thư. Hầu hết những ca bệnh đã được y học chính thống từ chối trong vô vọng ( ví dụ như “những ca đã vào giai đoạn cuối”)
Năm 1958, Gerson cho xuất bản ‘Liệu pháp kháng ung thư: đúc kết từ 50 ca bệnh”, quyển sách chứa những chi tiết về lý thuyết , phương pháp điều trị, và kết quả của ông.
Phác đồ điều trị của Gerson thì ít tích cực và khó khan hơn so với những liệu pháp kháng ung thư thay thế thành công nhất, rất dễ hiểu vì phần lớn thời gian điều trị chỉ sử dụng liệu pháp dinh dưỡng. Thế nên rất khó xác định các thống kê trung bình về những thành công của nó trong việc điều trị bệnh ung thư, nhưng hầu hết bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối có tỷ lệ phục hồi hơn 50%.
–Liệu pháp Gerson: Ghi chú sau cùng—
Thực đơn cho chế độ ăn uống này bao gồm các loại cây ăn trái và rau trồng hữu cơ, nước ép nguyên chất (8 ounces ~ 0.24 liters mỗi giờ, vị chi là 13 lần mỗi ngày), ngày 3 bữa chay, một hỗn hợp gồm Kali-Vitamin B12-và Vitamin C.
Lượng hỗn hợp Kali-Vitamin B12-và Vitamin C được sử dụng phụ thuộc vào bệnh nhân, phân loại bệnh ung thư, và cách mà bệnh lý ung thư tiến triển. Các tỷ lệ được lý giải trong quyển sách, “Chữa lành bằng cách của Gerson”, được con gái của bác sĩ Gerson- Charlotte Gerson viết lại. Có thể liên lạc với viện Gerson để có them thông tin (gerson.org)
Đối với trường hợp tồi tệ nhất (giai đoạn cuối), phải sử dụng cà phê và hoa cúc đổ ống, chúng có một tác động đáng ngạc nhiên là làm trẻ hóa bệnh nhân ung thư.
–Chữa lành ung thư: liệu pháp Oxy/ Ozone –
Kể từ khi tiến sĩ Otto Warburg khám phá ra mối tương quan giữa các tế bào thiếu hụt oxy và nguyên nhân gây bệnh ung thư, các phương pháp để gia tăng hàm lượng oxy đã được nghiên cứu rỗng khắp.
Liệu pháp Ozone hiện nay được xem là một phương pháp điều trị y tế chính thống ở Đức dành cho một loạt ca bệnh như đột quỵ, ung thư, eczema, hoại tử và herpes.
Tuy nhiên, ở Hoa Kỳ, thì ozone vẫn chưa được hiệp hội ung thư Hoa Kỳ của Rockefeller kiểm tra, và do đó không được sử dụng trong việc hỗ trợ các bệnh nhân ung thư.
Họ đã thống nhất quan điểm trên một cách chính thức vào năm 1993, và đã không thay đổi nó, mặc dù nghiên cứu đã chứng minh tính hiệu quả.
–Liệu pháp Oxy/Ozne: Ghi chú sau cùng–
Bệnh nhân ung thư vào thời kỳ cuối có thể được thực tập sinh truyền nhỏ giọt Hydro Peroxide đường tĩnh mạch cách quãng hay liên tục.
Những ca bệnh nhẹ ít nghiêm trọng hơn có thể tiêu thụ một lượng nhỏ tầm 3% lượng Hydro Peroxide có trong thực phẩm nhiều lần trong ngày kết hợp với những kế hoạch điều trị thay thế khác.
Máy tạo Ozone cũng có thể hỗ trợ tăng nồng độc oxy đến phổi.
–“Thượng Đế đã ban dược phẩm đến cho nhân loại, và điều đó có nghĩa là sự khôn ngoan của Ngài sẽ không khinh rẻ chúng.”
Kinh Thánh, Sách Huấn Ca 38:4
“…và hoa trái sẽ trở nên lương thực, và cành lá của chúng là để chữa lành bệnh tật.”
Kinh Thánh, Ezekiel 47: 12
–Hết–
 Nguồn http://paxcni.wordpress.com 
Nguồn : Earth's Revolution